talawas chủ nhật

 
Tác phẩm dịch :: 13.04.2008


Arthur KoestlerVòng tròn ma thuật


Arthur Koestler
Arthur Koestler (1905-1983)

Sonnenfinsternis (Nhật thực) là tên bản gốc tiếng Đức tác phẩm quan trọng nhất của Arthur Koestler. Với việc xuất bản Nhật thực trong bản dịch tiếng Anh Darkness at Noon, tác giả đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa cộng sản. Bản dịch tiếng Pháp Le Zéro et l’Infini năm 1946 với 400.000 bản gây tiếng vang lớn và khiến Đảng Cộng sản Pháp phải ra những biện pháp đối phó. Từ đó đến nay, Nhật thực trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới thế kỉ 20, thường được nhắc chung với Trại súc vật1984 của George Orwell. Tại miền Nam trước 1975, Nhật thực được Nhà xuất bản Đen Trắng xuất bản năm 1973 với nhan đề Tội công thành, qua bản dịch từ tiếng Pháp của Quốc Ấn [0] . Tại miền Bắc trước 1975 và tại Việt Nam từ 1975 đến nay, tác phẩm này chưa bao giờ được ra mắt độc giả trong bản tiếng Việt.

Giới thiệu Nhật thực qua bản dịch từ tiếng Anh của dịch giả Phạm Minh Ngọc với nhan đề Vòng tròn ma thuật kì này, chúng tôi mong muốn gửi đến độc giả Việt Nam hi vọng về một tương lai trong đó chúng ta vĩnh viễn không bao giờ phải trải qua những kinh nghiệm như được miêu tả trong tác phẩm cay đắng này nữa. talawas chủ nhật

Lời người dịch

Đây là bản dịch tác phẩm Darkness at Noon, một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Arthur Koestler, đã được nhà xuất bản Random House xếp thứ 8 trong 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất trong thế kỷ XX. Người dịch cho rằng sẽ rất hợp lý nếu chuyển ngữ tên tác phẩm này thành Đêm giữa ban ngày nếu như trước đó chưa có một tác phẩm đã rất nổi tiếng cùng tên của nhà văn Vũ Thư Hiên. Nhưng những độc giả có đủ kiên nhẫn đọc hết tác phẩm cũng như lời bạt thì sẽ thấy rằng Vòng tròn ma thuật hoàn toàn không phải là ngẫu hứng của người dịch, đấy là tên nguyên bản bằng tiếng Đức (đã thất lạc) do chính A. Koestler chọn, còn tên của bản tiếng Anh lại do nữ dịch giả Daphne Hardy đặt ra sau này (bản tiếng Pháp tác phẩm này lại có tên là Số không và vô cực, còn trong bản tiếng Nga lại là Tối đến loá mắt).

Xin được nói thêm đôi lời về tác giả A. Koestler. Ông là người gốc Do Thái, sinh năm 1905 tại Budapest, thời thanh thiếu niên ông sống và học tập ở Hung, Áo và Đức. A. Koestler tham gia tích cực vào những cuộc xung đột xã hội và tư tưởng chủ yếu của thời đại mình. Trở thành đảng viên cộng sản trong những năm 1930 và đã đi thăm Liên Xô một thời gian, thất vọng và ra khỏi Đảng vào năm 1938. Cuối năm đó ông bị lực lượng phát-xít Tây Ban Nha bắt và bị kết án tử hình. Được tha vào phút chót nhờ sự can thiệp của chính phủ Anh, ông đến Pháp và năm sau thì lại bị bắt vì quan điểm chính trị. Sau khi được tha vào năm 1940 ông đến Anh và sống ở đây đến cuối đời. Những cuốn tiểu thuyết, những bài phóng sự cũng như các tác phẩm viết về văn hoá và chính trị đã đưa tên tuổi ông thành một trong những nhà bình luận quan trọng nhất về những nan đề của thế kỷ XX. Ông mất năm 1983.

Tất cả các ghi chú đều của người dịch.

 

Arthur Koestler

Vòng tròn ma thuật

Phạm Minh Ngọc dịch


Đợt thẩm vấn thứ nhất (1-9) Đợt thẩm vấn thứ nhất (10-14) Đợt thẩm vấn thứ hai Đợt thẩm vấn thứ ba Vĩ thanh Thay lời bạt

Kẻ thiết lập nên chế độ chuyên chế mà không giết Brutus cũng như kẻ lập nên nền cộng hoà mà không giết các con của Brutus thì chỉ có thể cầm quyền trong một thời gian ngắn. - Machiavelli (Discorci)

Thưa đại nhân, thưa đại nhân, mỗi người tất phải có một nơi mà người ta thương hại mình chứ! - Dostoevski (Tội ác và hình phạt)

Các nhân vật trong cuốn sách này đều là hư cấu. Nhưng hoàn cảnh lịch sử quyết định hành vi của họ thì chân thực. Nhân vật N. S. Rubashov được tạo ra từ cuộc đời của một số nạn nhân của cái gọi là những vụ án ở Moskva. Tác giả có quen biết một vài người trong số đó. Cuốn sách này được viết nhằm tưởng nhớ hương hồn họ.

Paris, tháng 10 năm 1938 – tháng 4 năm 1940



Đợt thẩm vấn thứ nhất

Tất cả các nhà cầm quyền đều có tội. - Saint-Just

1.

Cửa phòng giam rít lên ken két rồi đóng sập lại.

Rubashov dựa lưng vào tường, anh đứng như thế một lúc rồi lấy thuốc lá ra hút. Bên phải anh, trên một cái giường hẹp là hai cái chăn đã nhàu nát và một cái nệm nhồi rơm còn mới, căng phồng. Bên trái có một vòi nước và một cái chậu rửa bằng sắt tây đã han rỉ lỗ chỗ. Bên dưới chậu rửa là một cái thùng dùng làm hố xí bằng gỗ, người ta vừa mới sát trùng xong: mùi clor vẫn còn vương vất đâu đây. Tường gạch cách âm, nhưng có thể truyền tin bằng cách gõ vào ống dẫn nước nóng. Cửa sổ cao đúng tầm mắt, anh có thể nhìn ra sân nhà giam mà không cần phải kiễng lên nhòm qua khung chấn song sắt phía trên. Tạm ổn cả, anh nghĩ như thế.

Rubashov ngáp, anh cởi áo bành tô rồi gập lại và để lên đầu giường. Sau đó anh chăm chú nhìn khắp sân trại giam. Tuyết, dưới ánh sáng của những ngọn đèn pha, ánh lên một màu vàng nhạt. Dọc theo các bức tường có một con đường hẹp, nghĩa là ở đây được đi dạo. Còn lâu mới sáng; dù có ánh đèn nhưng vẫn nhìn thấy những ngôi sao xa lấp lánh ánh bạc. Dọc theo bức tường phía bên ngoài, đối diện với phòng giam của anh có một người lýnh đang đi tuần, anh ta bước như đang duyệt binh, đúng một trăm bước thì quay lại.

Anh tháo ủng ngay bên cạnh cửa sổ. Sau đó anh uể oải ngồi xuống chiếc gường sắt rồi để mẩu thuốc lá hút dở bên chân giường và cứ ngồi yên lặng như thế một lúc. Rồi anh lại đi đến bên của sổ. Sân trại trống vắng và cực kì yên tĩnh; người lính gác tiếp tục bước như cũ; bên trên hàng rào nhấp nhô của tháp canh là những vì sao của dải Ngân hà lấp lánh, nhấp nháy.

Cuối cùng thì anh cũng đi nằm, anh duỗi thẳng hai chân và vén chăn thật kỹ. Đồng hồ chỉ năm giờ, chắc là ở đây người ta không bắt dậy trước bảy giờ, nhất là lại đang mùa đông. Chập chờn nửa thức nửa ngủ, anh nghĩ rằng ít nhất phải ba bốn ngày nữa mới bị gọi lên lấy cung. Anh tháo chiếc kính không gọng và để xuống sàn nhà rồi khẽ nhoẻn miệng cười và nhắm mắt lại. Ấm áp và bình tĩnh đến lạ lùng, đã nhiều tháng nay anh không được ngủ một cách yên tĩnh như thế này.

Khi người giám thị bật đèn và nhìn vào qua cửa sổ thì cựu Dân uỷ Rubashov vẫn còn ngủ, lưng quay vào tường, đầu gối lên tay trái, tay phải buông thõng xuống sàn, chỉ có bàn tay là khẽ động đậy.


2.

Một tiếng đồng hồ trước đây, Rubashov đã mơ thấy mình bị bắt trước khi hai nhân viên của Bộ Dân uỷ Nội vụ đập cửa phòng.

Tiếng đập càng lúc càng to, Rubashov vươn vai, cố gắng thoát khỏi giấc mộng thường nhật. Anh đã biết cách thoát khỏi những cơn ác mộng hằng đêm vì giấc mơ về vụ bắt giữ thứ nhất cứ thường xuyên quay trở lại, chính xác như lò xo đồng hồ. Đôi khi anh phải vận tất cả ý chí để làm cho chiếc lò xo ngừng chuyển động, nhưng nay thì anh đã bất lực: mấy tuần gần đây anh thấy người rất mệt, trán lúc nào cũng lấm tấm mồ hôi, khó thở nữa, tiến trình như thế cứ tiếp tục, mộng mị ngày càng kéo dài hơn.

Thường thì anh mơ thấy tiếng gõ cửa và ngoài cầu thang có ba người, họ đến để bắt anh. Anh nhìn thấy họ đằng sau cánh cửa đóng chặt, anh còn nghe thấy tiếng họ cười to đến rung cả tường. Họ vận những bộ đồng phục còn mới tinh, đấy là những bộ quân phục vệ binh của nền Đệ tam Đế chế, ve áo và cổ tay áo có thêu huy hiệu của nền chuyên chính non trẻ dưới dạng những cây thập tự trông như những con nhện độc; còn trên tay họ là những khẩu súng lục quá khổ; ủng, thắt lưng và bao kiếm nồng nặc mùi da thuộc còn mới. Thế mà bây giờ họ đã có mặt ở đây, ngay trong phòng anh: hai anh chàng có dáng nông dân cao ngồng, mắt hí và một người thấp béo. Họ đứng ngay cạnh đầu giường, anh cảm thấy cả hơi thở gấp gáp trên mặt họ và nghe thấy tiếng thở khò khè vì bệnh hen của anh chàng béo, trong không khí yên ắng của căn phòng lúc đó, tiếng thở như vậy quả là rất to. Một người nào đó ở tầng trên bất thình lình giật nước trong phòng vệ sinh, tiếng nước chảy ồng ộc trong đường ống làm rung chuyển cả căn nhà.

Thời gian như ngừng hẳn; tiếng đập cửa ngày càng to hơn; hai người đến bắt Rubashov thay nhau đấm vào cánh cửa, trong khi người này đấm thì người kia thổi vào các ngón tay cho đỡ cóng. Nhưng Rubashov không thể dậy được, mặc dù anh biết rằng điều tồi tệ nhất đã bắt đầu: họ đã đứng ngay sát giường, thế mà anh vẫn cố mặc chiếc áo khoác màu trắng. Ống tay áo, như cố tình trêu ngươi, bị lộn trái, không thể nào lần ra. Rubashov làm một cố gắng cuối cùng, nhưng vô ích và bất thình lình người anh bỗng cứng đờ ra: anh không thể cử động được, anh hốt hoảng nhận ra rằng muốn sống còn thì anh phải tìm cho ra cái ống tay áo đáng nguyền rủa này ngay lập tức. Sự bất lực kéo dài dường như bất tận, Rubashov vừa thở hổn hển vừa lăn lộn trên giường, những giọt mồ hội lạnh ướt đẫm hai bên thái dương, còn tiếng đập cửa thì vẫn như cũ, nghe như những tiếng trống bị nén lại vậy; cánh tay anh vẫn lục đục mò mẫm bên dưới cái gối, cố tìm cái ống tay áo và cuối cùng, một cú đánh như trời giáng vào đầu đã làm anh thoát khỏi cơn ác mộng.

Hôm nay cũng thế, trong mấy năm gần đây chuyện đó đã xảy ra cả trăm lần rồi và đây chính là lý do làm cho Rubashov bị điếc, anh mở mắt ra với cảm giác như vừa bị người ta đập báng súng lục vào mang tai. Vẫn còn run, cánh tay vẫn tiếp tục lần mò dưới gối để tìm cái ống tay áo, bởi vì trước khi tỉnh ngủ hẳn anh phải trải qua một thách thức cuối cùng nữa: tin rằng mình vừa tỉnh cơn ác mộng, còn khi thức thì anh sẽ lại ở trong một phòng giam, nền phòng bằng đá ẩm và lạnh, với chiếc thùng gỗ đặt dưới chân giường và lọ nước với mấy mẩu bánh mì khô, rắn như đá ở trên đầu giường.

Và lần này cũng vậy, cơn hoảng loạn không tha Rubashov ngay vì anh không thể đoán được là bàn tay vừa chạm vào cái bình nước hay cái công tắc của chiếc đèn ngủ để trên cái tủ nhỏ ở đầu giường. Đèn bật sáng và nỗi sợ hãi lập tức tan dần. Anh hít thở sâu mấy lần, như uống bầu không khí tự do rồi lấy khăn mặt lau cái trán và phần hói trên đỉnh đầu lấm tấm mồ hôi. Tính khôi hài đã quay trở lại, anh nháy mắt với bức ảnh của Anh Cả treo trên đầu giường, những bức ảnh như thế treo khắp nơi: trên đầu giường, trên nóc tủ…trong tất cả các căn hộ ngôi nhà Rubashov đang ở, cũng như trong tất cả các phòng, các căn hộ trong thành phố của anh, trong tất cả các thành phố của đất nước vô cùng rộng lớn này, bức ảnh của con người từng đòi hỏi anh những chiến công và hi sinh vô bờ bến, còn bây giờ nó đang giang vòng tay rộng vô bờ bến che chở cho anh. Rubashov đã tỉnh hẳn nhưng tiếng gõ cửa thì vẫn vang lên đều đều như cũ.


3.

Hai người đến bắt Rubashov hội ý trên cái chiếu nghỉ thiếu ánh sáng của cầu thang. Còn Vasily, người lao công, được gọi đến làm chứng thì đứng trước cánh cửa vẫn còn mở của chiếc thang máy, ông cảm thấy khó thở vì hoảng quá. Đấy là một ông lão gầy còm, ốm yếu; trên cái cần cổ đầy gân xanh, nhô ra từ chiếc áo đại cán sờn cũ vừa khoác vội lên trên chiếc áo sơ mi mà lão dùng làm áo ngủ, có một vết sẹo khá rộng màu vàng trông giống như một cái tràng nhạc. Đấy là một vết thương từ thời nội chiến, lúc đó ông chiến đấu trong trung đoàn lừng danh do Rubashov chỉ huy. Sau đó Rubashov được ra nước ngoài công tác, Vasily chỉ còn biết tin tức của anh qua những bài báo mà con gái đọc cho nghe mỗi buổi tối. Những bài diễn văn của Rubashov tại những kì đại hội Đảng thì vừa dài vừa khó hiểu, nhưng cái chính là Vasily đã không còn nghe thấy âm hưởng của người chỉ huy râu ria, chửi tục khủng khiếp, đến Đức Bà nhà thờ ở Kazan trên cao xanh kia cũng phải mỉm cười. Thường thì Vasily ngủ gục ngay giữa chừng bài diễn văn của Rubashov và chỉ thức giấc khi cô con gái long trọng đọc những câu cuối cùng, bao giờ cũng kèm theo những tràng vỗ tay như sấm dậy. Sau những câu khẩu hiệu: “Đảng cộng sản muôn năm! Cách mạng muôn năm! Lãnh tụ và người Thầy vĩ đại sống mãi!”, bao giờ Vasily cũng nói “Amen!”, nhưng nói khẽ đến mức cô con gái không nghe thấy; ông cởi áo khoác rồi bí mật làm dấu và đi nằm. Từ trên tường, Anh Cả vẫn nhìn Vasily như mọi khi, còn bên cạnh Anh là một bức ảnh đã ố vàng vì năm tháng của người chỉ huy trung đoàn Nikolai Rubashov. Họ mà nhìn thấy bức ảnh này thì ông cũng sẽ bị bắt.

Trên chiếu nghỉ cầu thang trước phòng Rubashov mọi vật đều yên ắng, tối và lạnh. Một nhân viên của Bộ Dân uỷ Nội vụ, tay trẻ hơn, đề nghị bắn vài phát vào ổ khoá. Vasily, chân trần trong đôi ủng rộng, dựa hẳn người vào cánh cửa cầu thang máy; khi bị đánh thức ông sợ đến nỗi không quấn nổi xà cạp nữa. Tay nhân viên già hơn không cho nổ súng: vụ bắt giữ phải được tiến hành trong trật tự. Thỉnh thoảng họ lại phà hơi vào các ngón tay đã lạnh cóng rồi tiếp tục gõ cửa, người trẻ hơn còn lấy cả báng súng mà gõ nữa. Có tiếng phụ nữ la hét ở bên dưới. “Bảo bà ta câm miệng đi!” người trẻ tuổi hơn nói với Vasily. “Này,” Vasily gào lên “nhân viên an ninh đấy!”. Tiếng la hét ngừng hẳn. Người trẻ hơn đạp mạnh vào cánh cửa. Tiếng động vang khắp hành lang. Cuối cùng thì khoá cửa bị gãy và bung ra.

Ba người đứng sát nhau ngay bên cạnh giường: tay trẻ hơn cầm khẩu súng lục, tay già hơn thì đứng thẳng như đang “chào cờ” vậy; còn Vasily thì đứng sau một chút, lưng tựa vào tường. Rubashov đưa tay lau cái trán lấm tấm mồ hôi và khẽ nheo mắt, theo thói quen của người cận thị, nhìn ba người vừa mới vào. “Công dân Nikolai Zalmanovitch Rubashov,” người trẻ tuổi dõng dạc tuyên bố, “nhân danh Cách mạng, tôi tuyên bố anh đã bị bắt!”. Rubashov đưa tay tìm cái kính không gọng ở bên dưới gối, anh cầm lấy kính và đứng lên. Bây giờ, sau khi đã đeo kính anh mới có vẻ giống với Rubashov mà lão Vasily và tay nhân viên già hơn thường thấy trong các bức ảnh vẫn thường xuất hiện trên báo chí. Tay nhân viên già còn đứng nghiêm hơn trước; nhưng người trẻ tuổi, vốn lớn lên dưới thời những nhân vật mới, bước đến cạnh giường - cả Vasily, Rubashov và tay nhân viên có tuổi đều nhận thấy rằng hắn chuẩn bị nói, mà cũng có thể làm, một hành động lỗ mãng không thể chấp nhận được: sự chậm trễ làm hắn sốt ruột.

“ Này đồng chí, cất súng đi,” Rubashov lên tiếng, “rồi cho tôi biết các anh đến đây có việc gì.”

“Ông chưa nghe rõ à? Ông đã bị bắt,” người trẻ tuổi nói. “Mặc quần áo nhanh lên.”

“Các anh có lệnh không?”, Rubashov hỏi. Người nhiều tuổi rút từ trong túi áo ra một tờ giấy, sau khi đưa cho Rubashov anh ta lại đứng nghiêm như cũ.

Rubashov yên lặng đọc.

“Thôi được,” anh lẩm bẩm. “Già vẫn dại, mẹ kiếp….”

“Mặc quần áo nhanh lên,” người trẻ tuổi nói. Thái độ lỗ mãng của hắn không phải là giả tạo, thường ngày hắn vẫn có thái độ như thế. “Chúng ta đã tạo ra thế hệ kế thừa như vậy đấy,” Rubashov chợt nghĩ. Trong đầu anh lại hiện lên những bức tranh cổ động với những chàng thanh niên toe toét cười. “Đưa cho tôi cái áo khoác,” Rubashov bảo, “đủ rồi, cất súng đi”. Mặt đỏ lên, nhưng anh chàng không trả lời. Người nhiều tuổi hơn đưa áo khoác cho Rubashov, anh luồn cánh tay vào ống áo. “Được rồi,” anh vừa nói vừa gượng cười. Ba người kia không hiểu anh nói gì, vẫn giữ thái độ im lặng nặng nề như cũ. Rubashov từ từ đứng lên và bắt đầu thu nhặt quần áo vương vãi khắp phòng. Sau tiếng thét đứt đoạn, ngôi nhà lại chìm vào yên lặng nhưng cả bốn người đều có cảm giác như trong nhà này chẳng có ai ngủ cả, họ chỉ nằm im, thậm chí nín thở, trên giường. Rồi có ai đó ở tầng trên giật nước trong nhà vệ sinh, tiếng nước chảy ồn ào, lục bục sôi réo trong đường ống.


4.

Dưới chân cầu thang có một chiếc ô tô đời mới nhất do Mỹ sản xuất. Đường phố vẫn còn tối lắm; dân cư các khu nhà bên cạnh vẫn còn ngủ hay giả vờ ngủ; người lái xe bật đèn pha và họ lần lượt bước vào trong xe: đầu tiên là tay nhân viên trẻ hơn, sau đó đến Rubashov và cuối cùng là tay nhân viên có tuổi hơn. Người lái xe cũng mặc đồng phục của Bộ Dân uỷ, anh ta mở máy và bật đài phát thanh. Con đưởng rải nhựa chấm dứt ngay sau góc phố và mặc dù họ đi qua trung tâm thành phố, xung quanh là những toà nhà hiện đại cao tám, chín, thậm chí mười tầng nhưng con đường lát đá thì lại gồ ghề, bị xẻ thành rãnh sâu hoắm phủ đầy băng và tuyết. Xe chạy chậm không khác gì đi bộ thế mà vẫn rung và kêu ầm ầm như một chiếc ba gác cũ.

“Chạy nhanh lên một tí,” người trẻ tuổi hơn, có vẻ không chịu nổi sự yên lặng bao trùm trong xe, lên tiếng.

Người lái xe chỉ khẽ nhún vai nhưng không quay lại. Anh ta đã liếc nhìn một cách thiếu thiện cảm khi Rubashov chui vào xe. Một lần, khi Rubashov bất ngờ lăn ra ốm, người lái xe cấp cứu cũng đã nhìn anh hệt như thế. Đi trên một chiếc xe rung bần bật lại chạy quá chậm qua những dãy phố không người, như những dãy phố chết, tạo cho người ta cảm giác thật khó chịu.

"Còn lâu nữa không?" Rubashov vừa hỏi vừa nhìn ra con đường bị băm nham nhở. Xuýt nữa thì anh buột miệng hỏi thêm “Bệnh xá ở đâu?”. “Khoảng ba mươi phút,” người có tuổi đáp.

Rubashov lôi thuốc lá ra, anh rút lấy một điếu rồi chìa bao thuốc cho những người khác. Người trẻ hơn lắc đầu, còn người có tuổi hơn thì rút hai điếu và đưa về phía trước một điếu cho người lái xe. Tay lái xe gục đầu xuống cổ áo, sau đó chỉ để một tay trên vô lăng còn tay kia thì đưa que diêm đang cháy về phía sau. Rubashov cảm thấy yên tâm phần nào, nhưng ngay sau đó anh lại cảm thấy ngượng. “Gớm, dễ xúc động thế,” anh thầm nghĩ. Dù sao mặc lòng, anh vẫn muốn nói chuyện nhằm xua tan sự xa cách bao trùm lên cả bốn người.

“Tiếc cho cái xe quá,” anh khẽ nói. “Ô tô nước ngoài phải mua bằng vàng, thế mà đường như thế này thì chỉ mấy tháng là hỏng.”

“Đúng như thế. Đường của chúng ta còn xấu lắm,” người có tuổi hơn hưởng ứng. Bằng vào giọng nói có thể thấy rằng anh ta đã nhận thấy sự lúng túng của Rubashov. Rubashov cảm thấy mình như một con chó hoang được người ta thương hại ném cho mẩu xương nên quyết định không tiếp tục chuyện trò nữa. Nhưng người trẻ hơn đã hằn học hỏi:

“Bọn tư bản thì đường tốt hơn à?”

Rubashov khẽ mỉm cười.

“Thế anh đã ra nước ngoài bao giờ chưa?”

“Tôi biết chúng thế nào rồi. Trò tuyên truyền tư sản không tác động được tôi đâu.”

“Không biết anh cho tôi là người thế nào nhỉ?” Rubashov bình tĩnh hỏi. Nhưng rồi không giữ được nên nói thêm: “Anh nên học lại lịch sử Đảng đi.”

Người trẻ tuổi không trả lời, anh ta nhìm chằm chằm vào lưng người lái xe. Từ đấy trở đi không ai nói thêm câu nào nữa. Xe bị chết máy lần thứ ba, người lái xe vừa văng tục vừa khởi động lại. Xe nhảy chồm chồm trên những con đường gồ ghề ngoại ô. Hai bên đường là những căn nhà gỗ chen vai thích cánh bên nhau, mặt trăng mờ mờ, lạnh lẽo lững lờ trôi trên những mái nhà gù gù, xiêu vẹo.


5.

Hành lang của cái nhà tù mới xây này có những chiếc đèn rất sáng. Một luồng ánh sáng thiếu sinh khí, sáng đến loá mắt dọi lên những bức tường màu trắng, những cửa sổ phòng giam với những tấm bìa các tông ghi tên tù nhân, những lỗ nhòm màu đen và khung sắt của tầng hai. Cái ánh sáng chói chang, nhạt nhẽo và tiếng bước chân trên nền đá lát không có tiếng vọng này có vẻ quen thuộc với Rubashov đến nỗi ảo giác của cơn ác mộng kéo dài hồi đêm như chợt hiện về trong tâm trí. Anh tìm mọi cách thuyết phục mình rằng tất cả những chuyện đang diễn ra đều không thực. “Nếu ta tin rằng mình đang ngủ,” anh nghĩ, “thì tất cả những cái này sẽ như một giấc mơ.” Anh đã tự thuyết phục mình một cách ráo riết đến nỗi đầu tự nhiên choáng váng và anh cảm thấy xấu hổ vô cùng. “Đã tự nhận là cứu tinh thì hãy mang lấy cây thập giá,” anh nghĩ. “Đến phút chót”. Chẳng bao lâu sau viên giám thị đã dừng bước, cửa phòng bốn trăm linh tư. Bên trên lỗ nhòm có treo một cái biển màu trắng với hàng chữ: Nikolai Zalmanovitch Rubashov. “Bài bản đấy,” anh tự nhủ; phòng giam có sẵn tên tuổi treo ngoài cửa làm anh choáng váng. Anh định bảo viên giám thị mang cho thêm một cái chăn, nhưng cửa đã rít lên ken két và đóng sập lại.


6.

Viên giám thị thỉnh thoảng lại nhìn qua lỗ nhòm. Rubashov vẫn nằm im trên giường, chỉ có lòng bàn tay buông xuống sát nền nhà là khẽ động đậy; ở dưới chân giường có những mẩu tàn thuốc lá và cái kính không gọng.

Bảy giờ, tức là hai tiếng đồng hồ sau khi Rubashov được đưa vào phòng giam, anh bỗng giật mình thức giấc bởi một hồi còi kéo dài. Không bị những giấc mơ thường nhật hành hạ, anh cảm thấy phấn chấn hơn. Tiếng còi báo thức rúc lên ba lần. Sau hồi còi thứ ba, buồng giam lại chìm vào im lặng nặng nề.

Một ngày mùa đông vừa mới bắt đầu, ánh bình minh nhợt nhạt làm nhoà đi hình thù của cái thùng gỗ, cái chậu rửa cùng cái vòi nước. Tấm lưới thép màu đen như được in vào khung cửa sổ hình vuông mờ ảo; phía trên, về bên trái có một tấm kính vỡ nhưng đã được ai đó cuộn tờ báo nhét vào. Rubashov nhặt cái kính và đầu mẩu thuốc lá lên nhưng sau đó lại nằm dài ra giường. Anh đeo kính và bật diêm. Căn phòng vẫn yên ắng như cũ. Trong tất cả các tầng quét vôi của cái tổ ong to lớn xây bằng đá này mọi người đã được đánh thức, cùng vùng dậy và bước vào ngày mới với những lời rủa xả. Nhưng những người trong phòng biệt giam thì không nghe thấy gì hết, ngoại trừ tiếng bước chân của cai ngục bên ngoài hành lang. Rubashov biết rằng anh sẽ phải ở trong những phòng biệt giam như thế này cho đến ngày ra pháp trường. Rubashov nằm ngửa, vừa chậm rãi nhả khói vừa lấy tay mân mê chòm râu ngắn.

“Nghĩa là đòm,” Rubashov tự nhủ. Mắt lúc lúc lại chớp chớp, nhưng anh vẫn nằm yên nhìn mấy ngón chân trên cái bàn chân dựng đứng trước mặt. Anh cảm thấy bình thản; lúc ấy anh đã mệt lắm và chỉ muốn ngủ để trượt dần vào cái chết, như trượt vào giấc mơ mà không phải chui ra khỏi cái chăn tù này. “Nghĩa là người ta sắp bắn nhà ngươi.” Rubashov nhủ thầm với mình như thế. Anh khẽ cử động mấy ngón chân bên trong tất và chợt nhớ đến bài thơ ví những ngón chân của Chúa như những con hoẵng trắng trong một khu rừng nhỏ. Anh tháo kính và lau vào ống tay áo với một động tác mà tất cả đàn em đều biết rõ. Anh cảm thấy ấm cúng và có thể nói là hạnh phúc, anh sợ mỗi một việc, đấy là phải dậy và đi. “Nghĩa là người ta sắp tiêu diệt nhà ngươi,” anh lẩm bẩm và lại lấy một điếu thuốc nữa ra hút mặc dù anh biết rằng chỉ còn tất cả ba điếu nữa thôi. Điếu thuốc đầu, khi dạ dày còn rỗng bao giờ cũng làm anh ngây ngất; còn lúc này, chính anh cũng đang thấy phấn chấn, một trạng thái tình cảm luôn dâng trào trong anh mỗi khi đối diện với cái chết. Đã có thời anh cho thế là không tốt, thậm chí hoàn toàn không chấp nhận được, nhưng lúc này anh không nghĩ như thế. Anh lại nhìn mấy ngón chân đang động đậy trong tất. Và mỉm cười. Tình thương đối với chính cơ thể của mình, cái cơ thể mà lâu nay anh vẫn tỏ ra bàng quan, bỗng trào dâng trong lòng; nhưng khi nghĩ đến cái chết không thể tránh khỏi thì anh lại thấy cay đắng. “Đội vệ binh già sẽ chết,” anh thì thầm. “Chúng ta là cuối cùng”. “Chúng ta rồi sẽ chết”. “Sẽ thành tro bụi…tương lai”. Anh cố gắng ôn lại nhạc điệu câu “Sẽ thành tro bụi…”, nhưng chỉ nhớ được lời thôi. “Đội vệ binh già sẽ chết,” anh nhắc lại và cố gắng tưởng tượng hình ảnh của những vệ binh già đó. Nhưng chỉ nhớ được vài người. Ông chủ tịch đầu tiên của Quốc tế, người bị tử hình vì tội phản bội, chỉ còn để lại trong tâm trí anh hình ảnh cái bụng bự sau tấm áo gilê kẻ ô. Ông luôn mang thắt lưng da chứ không bao giờ đeo dây. Ông Thủ tướng thứ hai của Nhà nước Cách mạng, cũng đã bị hành quyết, thì luôn cắn móng tay mỗi khi gặp nguy hiểm.... Lịch sử sẽ biện hộ cho các vị, Rubashov nghĩ, nhưng anh cũng chẳng tin chuyện này lắm. Lịch sử thì liên có liên quan gì với những kẻ cắn móng tay? Anh vừa rít thuốc vừa nghĩ đến những người đã chết và cảnh đoạ đầy mà họ phải chịu trước khi chết. Anh không căm thù Anh Cả mặc dù ông ta đáng bị như thế. Anh vẫn thường nhìn lên bức chân dung ông ta treo ngay trên đầu giường và cố gắng tạo trong lòng tình cảm thù địch với ông ta. Họ đã gọi ông ta bằng nhiều tên khác nhau nhưng cuối cùng thì cái tên Anh Cả đã được giữ lại. Nỗi kinh hoàng mà ông ta gây ra cho họ trước hết là vì ông ta có thể đúng, tất cả những người ông ta giết, ngay cả khi viên đạn đã nằm trong gáy, cũng phải công nhận rằng ông ta có thể đúng. Không ai dám chắc như thế; chỉ có cái mà họ gọi là Lịch sử nhưng Lịch sử lại chỉ đưa ra lời phán quyết sau khi tất cả những người bị kết án đã thành tro bụi từ lâu.

Rubashov bỗng cảm thấy có người đang quan sát mình qua lỗ nhòm. Không cần nhìn anh cũng biết rằng có một con mắt đang áp sát vào lỗ nhòm để theo dõi buồng giam; rồi có tiếng tra chìa khoá vào ổ. Phải một lúc sau cánh cửa mới mở. Giám thị, một lão già thấp bé, chân đi săng đan, đứng ngay cạnh cửa, hỏi:

“Tại sao anh không dậy?”

“Tôi bị ốm,” Rubashov đáp.

“Mai anh mới được gặp bác sĩ. Mà bệnh gì thế?”

“Đau răng,” Rubashov nói.

“Răng à?” viên giám thị hỏi rồi đóng sập cửa lại.

Bây giờ thì mình có thể ngủ được, Rubashov tự nhủ, nhưng tâm trí đã không còn được bình tĩnh như trước nữa. Hơi ấm mốc meo của cái chăn tù làm anh khó chịu. Anh tung chăn ra và lại tiếp tục quan sát cử động của mấy ngón chân, nhưng cảm giác bực bội lại càng tăng thêm. Cả hai cái tất đều có lỗ thủng ở gót. Anh muốn vá tất, nhưng nghĩ rằng phải gõ cửa và phải xin viên giám thị kim chỉ thì anh thối chí; chắc chắn là họ không cho kim đâu. Giá có một tờ báo lúc này thì tuyệt biết mấy. Anh rất muốn được ngửi mùi mực in, rất muốn được nghe tiếng sột soạt của trang giấy. Có thể một cuộc cách mạng đã nổ ra đêm qua, có thể người đứng đầu một nhà nước nào đó đã bị giết hay người Mỹ đã tìm được cách vượt qua được lực trọng trường. Vụ bắt giữ anh có thể chưa được đăng; trong nước nó có thể được giữ kín một thời gian, nhưng tin tức sẽ lọt ra nước ngoài ngay lập tức, người ta sẽ cho đăng những bức ảnh lấy từ những tờ báo ra cách đây mười năm và họ sẽ viết đủ thứ nhảm nhí về quan hệ giữa anh và Anh Cả. Lúc này thì anh không còn muốn đọc báo nữa, nhưng anh lại rất muốn biết trong đầu Anh Cả đang nghĩ gì. Anh như trông thấy ông ta ngồi cạnh một cái bàn dài, nặng nề và nhăn nhó, khuỷu tay chống lên mặt bàn và đang chậm rãi đọc cho một người thư ký chép. Khi đọc như thế những người khác thường đi đi lại lại, thả những vòng khói tròn hoặc mân mê một cái thước. Nhưng Anh Cả không đi lại, không mân mê thước, không nhả khói…. Thế rồi bỗng nhiên Rubashov thấy mình cũng đang đi đi lại lại, hoá ra anh đã đứng lên khoảng năm phút rồi mà không biết. Anh nhận ra thói quen cũ của mình là không bao giờ bước lên cạnh của những viên gạch lát nền, anh đã nhớ nằm lòng cách lát nền từ lâu. Nhưng ý nghĩ về Anh Cả vẫn lởn vởn trong đầu, và dần dần cái người ngồi bên chiếc bàn dài và đang đọc một cách bất động đó đã biến thành bức chân dung của chính ông ta, một bức chân dung với đôi mắt lạnh lùng mà ai cũng biết và được treo ngay trên đầu giường trong tất cả mọi gia đình.

Rubashov tiếp tục đi đi lại lại trên con đường nằm giữa chiếc thùng gỗ bên cạnh chậu rửa mặt và giường ngủ, từ cửa sổ đến cửa đi, vào rồi lại ra, bao giờ cũng đúng sáu bước rưỡi. Theo thói quen từ khi ở tù những lần trước, gần cửa đi anh quay sang phải còn khi đến gần cửa sổ thì quay sang trái; nếu anh không đổi hướng thì thế nào cũng bị chóng mặt. Anh Cả đang nghĩ gì trong óc nhỉ? Trong tâm trí anh bỗng hiện ra bức tranh về một lát cắt xuyên qua bộ não đó, đấy là bức tranh màu xám trên một tờ giấy trải căng ra và được ghim trên giá vẽ. Những đường cong màu xám phồng lên như những khúc ruột và quấn vào nhau như những con rắn, sau đó chúng trở nên nhạt nhoà giống như như những tinh vân trên các bản đồ thiên văn… Điều gì đang diễn ra trong những đường cong màu xám đang trương phồng lên thế kia? Con người đã biết rõ những tinh vân xa xôi kia nhưng chẳng biết gì về những đường cong nọ. Có lẽ chính vì thế mà lịch sử vẫn có nhiều bí ẩn hơn khoa học. Có thể sau đây, rất lâu sau đây, lịch sử sẽ được dạy bằng các con số thống kê cùng với những mặt cắt giải phẫu học như thế này cũng nên. Lúc đó thầy giáo sẽ vừa viết lên bảng công thức toán học biểu hiện điều kiện sống của dân chúng tại một nước cụ thể, trong một giai đoạn cụ thể, vừa nói: “Công thức này cho chúng ta thấy các yếu tố khách quan quyết định tiến trình lịch sử này”. Sau đó ông ta sẽ lấy thước chỉ vào khoảng xám mờ ảo giữa thuỳ hai và thuỳ ba của óc Anh Cả và nói thêm: “Còn đây là biểu hiện chủ quan của các yếu tố đó. Chính điều này đã dẫn đến việc thiết lập chế độ toàn trị tại Đông Âu trong nửa đầu thế kỷ XX”. Khi lịch sử chưa trở thành khoa học thì chính trị vẫn sẽ chỉ là loại hoạt động nghiệp dư đẫm máu, chỉ là trò mê tín dị đoan và bịp bợm…

Rubashov nghe thấy tiếng chân đều bước ngoài hành lang. Ý nghĩ đầu tiên vụt hiện trong óc: bắt đầu tra tấn đây. Anh đứng lại giữa phòng giam, tai căng lên nghe ngóng. Tiếng chân bỗng ngừng lại trước cửa phòng bên cạnh, mệnh lệnh được ban ra, rồi có tiếng chìa khoá xoay trong ổ. Sau đó tất cả trở lại im lặng như cũ.

Rubashov đứng như trời trồng, nín thở và chờ đợi tiếng thét đầu tiên. Anh nhớ rằng chính tiếng thét đầu tiên, đấy là lúc người ta thét lên vì sợ là chính chứ không phải vì đau, là khủng khiếp nhất. Sau đó thì nhẹ nhàng hơn, người nghe sẽ quen ngay, thậm chí còn có thể đoán được cách thức tra tấn qua tiếng rên la. Trước khi kết thúc, đa số người, dù tính cách và giọng nói có khác nhau đến đâu, cũng đều hành xử giống nhau: tiếng la hét nhỏ dần và biến thành tiếng rên tắc nghẹn trong cổ họng. Thường thì ngay sau đó sẽ có tiếng đóng cửa. Rồi lại có tiếng vặn chìa khoá và tiếng la hét của nạn nhân tiếp theo thường vang lên trước cả khi bị tra tấn, vừa thấy bóng dáng bọn đao phủ là họ đã thét lên rồi.

Rubashov đứng giữa phòng và căng thẳng chờ đợi tiếng thét đầu tiên. Anh chậm rãi lau kính vào ống tay áo và tự nhủ rằng lần này, dù bị tra tấn thế nào anh cũng không la. Anh nhắc đi nhắc lại câu đó như đang vừa lần tràng vừa cầu kinh vậy. Anh đứng đợi như thế một lúc nhưng vẫn không nghe tiếng kêu. Chỉ nghe tiếng tra chìa khoá, tiếng người thầm thì và tiếng đóng cửa. Tiếng chân bước lại vang lên, họ đi sang phòng kế tiếp.

Rubashov bước lại phía của sổ và ghé mắt nhìn. Có mấy người đàn ông đang đứng cạnh cửa phòng 407, đối diện với phòng anh. Đấy là người giám thị già và ba tạp vụ, hai người xách bình trà, người thứ ba thì xách một cái giỏ bánh mì đen, bên cạnh còn có hai người lính súng lục lăm lăm trong tay. Hoá ra không phải tra tấn mà là họ đang phát bữa ăn sáng…

Người ta đưa bánh mì cho 407. Nhưng Rubashov không nhìn thấy anh ta. Chắc là theo qui định, anh ta phải đứng cách cửa ra vào một bước chân; Rubashov chỉ nhìn thấy hai bàn tay và hai cánh tay của anh ta mà thôi. Hai cánh tay để trần và rất gầy, y như hai cái que thò ra bên ngoài hành lang. Hai bàn tay thì khum lại vì đang giữ cái bát. Anh ta nắm chặt lấy phần ăn và rút tay vào ngay lập tức. Cửa buồng giam đóng sập lại.

Rubashov không nhìn nữa. Anh đeo kính lên rồi hít một hơi thật dài, thâm tâm cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Rồi, trong khi chờ bữa ăn sáng đầu tiên, anh tiếp tục vừa đi vừa huýt sáo. Nhưng anh lại cảm thấy hơi lo, dù không biết tại sao, khi nhớ lại đôi cánh tay gầy và bàn tay khum khum của người tù trong buồng giam 407. Cảnh tượng hai bàn tay giơ ra và ngay cả những cái bóng mờ trên đó cũng có vẻ như rất thân thuộc với anh, rất thân thuộc nhưng đã tuột khỏi trí nhớ của anh, giống như một đoạn nhạc xưa cũ hay mùi của một đoạn phố hẹp gần hải cảng vậy.


7.

Cánh cửa các phòng giam bên cạnh cứ lần lượt mở rồi đóng, nhưng phòng anh thì không. Rubashov bước lại gần cửa để nhìn xem họ đã đến chưa; không hiểu sao anh lại thèm một ly trà nóng đến thế. Lúc nãy anh đã nhìn thấy bình trà đang bốc khói và mấy lát chanh nổi lều bều trên mặt nước. Anh tháo kính và ghé sát mắt vào lỗ nhòm. Anh có thể nhìn thấy bốn buồng giam đối diện, từ số 401 đến số 407. Phía trên có một hàng lan can thép, đằng sau nó là các phòng giam tầng hai. Đoàn người đang quay trở lại, lần này theo phía bên phải; thì ra họ phát bữa sáng cho dãy bên trái trước, bây giờ đến lượt dãy phải. Lúc này họ đã đứng ngay trước buồng 408; Rubashov chỉ nhìn thấy lưng của hai người mặc sắc phục có đeo súng lục bên hông, những người khác đứng xa hơn, anh không nhìn thấy họ. Cánh cửa đã đóng lại; lúc này họ đi sang phòng 406. Rubashov lại trông thấy bình trà và người tạp vụ với cái giỏ chỉ còn vài lát bánh mì. Họ không dừng lại trước buồng 406, phòng này còn trống. Đoàn người đến gần rồi đi ngang qua cửa phòng anh rồi dừng lại trước buồng 402.

Rubashov lấy tay đập ầm ầm vào cánh cửa. Hai người tạp vụ cầm bình trà nhìn nhau rồi nhìn về phía cửa buồng anh. Còn người giám thị thì đang mở khoá buồng 402 và làm ra vẻ như không nghe thấy gì. Hai người mặc đồng phục đứng quay lưng lại cửa sổ buồng Rubashov. Bánh mì đã được đưa qua cửa buồng 402; đoàn người chuẩn bị đi tiếp. Rubashov đập càng dữ dội hơn. Anh tháo giày và rồi cứ đế giày mà nện liên hồi vào cánh cửa.

Anh chàng mặc đồng phục cao lớn hơn ngoái đầu lơ đãng nhìn cửa buồng Rubashov. Người giám thị đóng cửa buồng 402. Hai người tạp vụ xách bình trà lưỡng lự trong giây lát. Không biết anh chàng mặc đồng phục vừa ngoái lại nói gì đó với người giám thị gìa, chỉ thấy người này nhún vai rồi chậm chạp đi về phía buồng Rubashov. Hai người tạp vụ mang trà đi theo ông ta, còn người xách bánh mì thì đứng lại nói gì đó với người tù buồng 402.

Rubashov lùi lại, anh bỗng không còn thấy thèm ăn, cũng không có nhu cầu uống trà nữa. Bình nước đã không còn bốc khói, mấy lát chanh nổi lều bều trên mặt nước màu vàng nhạt trông như đã rũ ra và dúm dó đến thảm hại.

Có tiếng chìa khoá quay trong ổ, một con mắt ghé sát lỗ nhòm trong vài giây rồi lập tức biến mất. Cánh cửa bật mở. Rubashov ngồi trên giường và đang đi giày. Người giám thị giữ cửa để cho anh chàng mặc đồng phục cao lớn bước vào buồng giam. Anh ta có một cái đầu tròn, cạo trọc và đôi mắt trống rỗng, vô hồn. Bộ đồng phục còn cứng kêu sột soạt, khi anh ta bước đôi giày đinh cũng kêu cót két; Rubashov có cảm giác như ngửi thấy mùi da thuộc còn mới. Anh ta dừng lại trước cái thùng gỗ rồi đưa mắt nhìn khắp lượt buồng giam, cái buồng giam có vẻ như nhỏ lại sau khi anh ta bước vào.

“Anh chưa dọn phòng,” anh ta nói. “Chắc anh biết nội qui buồng giam chứ?”

“Tại sao tôi lại không được ăn sáng?”, Rubashov vừa nói vừa nhìn viên sĩ quan qua chiếc kính không gọng.

“Nếu anh muốn đề đạt gì thì phải đứng dậy,” viên sĩ quan bảo.

“Tôi chẳng có gì để nói hay đề đạt với anh,” Rubashov vừa đáp vừa buộc dây giày.

“Thế thì đừng đập cửa nữa, nếu không những biện pháp kỷ luật trại giam sẽ được áp dụng đấy,” viên sĩ quan đáp. Anh ta lại nhìn buồng giam một lần nữa. “Tù nhân không có giẻ lau buồng,” viên sĩ quan vừa nói vừa quay lại phía người giám thị.

Không biết người giám thị nói gì đó với anh chàng tạp vụ chuyên xách bánh mì, chỉ thấy người này lập tức chạy dọc hành lang. Hai người tạp vụ còn lại đứng trước cửa tò mò nhìn căn phòng. Người sĩ quan thứ hai đứng chống nạnh, lưng quay về phía phòng Rubashov.

“Tù nhân còn không có cả bữa sáng nữa,” Rubashov vừa thắt giây giày vừa nói. “Các anh định bắt tôi nhịn đói chứ gì? Biện pháp của các anh tuyệt vời đấy nhỉ.”

“Anh lầm rồi,” viên sĩ quan vẫn nói một cách đều đều như cũ. Rubashov nhìn thấy một vết sẹo rộng trên cái đầu trọc và cuống chiếc Huân chương Cách mạng trên ngực. “Hoá ra mày cũng từng tham gia nội chiến đấy,” Rubashov tự nhủ. Nhưng chuyện đó đã qua lâu rồi, bây giờ thì có ý nghĩa gì….

“Anh lầm rồi. Anh không được ăn sáng vì chính anh nói là bị ốm.”

“Anh ta bị đau răng,” người giám thị, lúc đó đang đứng tựa lưng vào cánh cửa, nói. Anh ta vẫn đi đôi dép và mặc bộ đồng phục nhàu nát, đầy vết dầu mỡ như cũ.

“Thôi được,” Rubashov nói. Anh rất muốn hỏi liệu việc buộc bệnh nhân nhịn đói có phải là biện pháp chữa bệnh mới nhất của chế độ hay không, nhưng đã kìm lại được. Câu chuyện đã làm anh chán ngấy rồi.

Người tạp vụ chuyên giữ bánh mì chạy vào và đưa cho người giám thị một cái chiếc giẻ lau bẩn. Viên giám ngục vứt chiếc giẻ lau vào góc buồng, ngay cạnh cái thùng gỗ.

“Anh còn có đề nghị nữa không?” viên sĩ quan hỏi, giọng nói tỏ ra cực kì nghiêm túc.

“Hãy để cho tôi yên và thôi trò đóng kịch này đi,” Rubashov đáp. Viên sĩ quan quay ra, còn người giám thị thì giơ chùm chìa khoá lên. Rubashov quay vào và đi đến bên cửa sổ. Khi cánh cửa vừa đóng sập lại thì cũng là lúc Rubashov hiểu rằng mình vừa quên một việc quan trọng nhất, anh lao về phía cánh cửa và lấy tay đấm thật mạnh.

“Cho xin mấy tờ giấy và một cái bút chì,” Rubashov gào lên. Rồi anh gỡ kính và dán mắt vào lỗ nhòm để nhìn xem họ có dừng lại hay không. Mặc dù anh đã gào đến vỡ họng nhưng đám người vẫn tiếp tục đi như không có gì xảy. Đoàn người đi xa dần, cuối cùng anh chỉ còn nhìn thấy lưng của viên sĩ quan có cái đầu trọc và chiếc thắt lưng da rộng bản với khẩu súng lục lủng lẳng ngang hông. '


8.

Rubashov tiếp tục đi bách bộ; sáu bước rưỡi đi ra, rồi sáu bước rưỡi đi vào. Sự kiện vừa rồi đã làm anh lo lắng; vừa lau kính vào ống tay áo anh vừa hồi tưởng lại toàn bộ câu chuyện. Anh căm thù cái tay sĩ quan có vết sẹo ở trên đầu, nếu có thể giữ mãi trong lòng mối thù này thì tốt biết mấy, nó sẽ làm cho anh cứng rắn hơn trong cuộc đấu tranh sẽ diễn ra nay mai. Nhưng anh lại có một thói quen tai hại là luôn đặt mình vào vị trí của người đối diện và xem xét mọi vật theo quan điểm của họ. Hãy tưởng tượng một tay Rubashov nào đó, dáng người nhỏ thó, râu ria sồm soàm, vẻ mặt bất cần đời, vẫn ngồi trên giường khi người lạ bước vào, rồi lại còn cố tình trưng ra đôi giầy với mấy cái tất ướt nữa! Dĩ nhiên tay Rubashov này đã có nhiều cống hiến và một quá khứ oai hùng; nhưng đứng trên diễn đàn đại hội là một việc còn ngồi trong buồng giam thì lại là việc hoàn toàn khác rồi. “Lão Rubashov huyền thoại đấy,” chắc tay sĩ quan với đôi mắt đờ đẫn, vô hồn đã nghĩ như thế. “Kêu khóc đòi ăn chẳng khác gì một thằng học trò, thật không biết xấu hổ là gì. Phòng thì bẩn. Tất thì rách. Đúng là loại dài lưng tốn vải. Lại còn định làm loạn: vì lý tưởng hay vì tiền thì cũng thế cả thôi. Chúng ta không làm cách mạng vì những loại người như thế. Đúng là hắn đã từng giúp đỡ cách mạng; nhưng đấy là ngày xưa, khi hắn còn ra hồn người cơ; còn bây giờ hắn đã trở thành một lão già tự mãn vô tích sự, chết là đáng rồi. Mà có thể ngay lúc đó hắn đã như thế rồi; thời cách mạng thiếu gì bọn hăng tiết vịt, rã đám ngay ấy mà. Nếu có lòng tự trọng thì hắn đã dọn buồng giam.”

Rubashov lưỡng lự không biết có cần lau sàn nhà không. Anh đứng giữa phòng giam như thế một lúc, sau đó anh đeo kính lên rồi đi lại gần cửa sổ.

Trời đã sáng rõ, ánh ngày màu xám nhạt làm dịu đi phần nào cái màu vàng gay gắt của đèn pha trong sân trại; hôm nay chắc là sẽ có tuyết. Bây giờ là gần tám giờ, nghĩa là anh vào đây mới có ba tiếng đồng hồ. Mấy bức tường xung quanh sân trông như những bức tường doanh trại quân đội; các cửa sổ được chắn lưới thép tối om om, không thể nào nhìn vào trong được. Có thể sau mỗi cái cửa sổ đó đều có một người đang đứng và nhìn ra sân, như anh, nhưng anh không thể nào nhận ra được. Tuyết trên sân trắng và đẹp quá, bề mặt có một lớp băng mỏng, nếu ta bước lên đó thì sẽ có tiếng lạo xạo dưới chân. Dọc con đường cách tường chừng mươi bước chân xung quanh sân thỉnh thoảng lại có những chỗ tuyết được vun thành đống. Người lính gác vẫn đi đi lại lại như cũ. Một lần, khi quay lại anh hơi ngửa mặt và nhổ nước bọt, làm thành một hình vòng cung rộng trước khi rơi xuống sân tuyết trắng, người lính tò mò cúi xuống, nhìn theo.

“Một chứng bệnh cũ,”, Rubashov chợt nghĩ. “Người cách mạng không thể đặt mình vào vị trí của người khác.”

“Hay có thể? Thậm chí họ còn cần phải làm như thế?

Cải tạo làm sao được thế giới nếu suốt ngày đặt mình vào vị trí của kẻ khác?

Người ta còn có thể cải tạo thế giới bằng cách nào?

Một người hiểu biết và sẵn sàng tha thứ - liệu có dám kiên quyết hành động hay không?”

“Họ sẽ bắn mình thôi,” Rubashov tự nhủ như thế. “Chẳng ai thèm quan tâm đến động cơ của mình.” Anh gục đầu vào thành cửa sổ. Mảnh sân vẫn ánh lên một màu trắng lắp lánh và yên tĩnh như cũ.

Anh đứng như thế một lúc, để mặc cho cái lạnh của tấm kính xâm nhập vào trán, lòng tịnh không nghĩ đến một điều gì khác. Dường như có tiếng động, đúng là có tiếng gõ nhẹ nhưng gấp gáp đang vang lên đâu đây, ngay trong buồng giam này.

Anh quay lại và chăm chú lắng nghe. Tiếng gõ nhẹ đến nỗi ban đầu anh không biết nó xuất phát từ mé tường bên trái hay mé tường bên phải. Anh vừa chú tâm lắng nghe thì tiếng gõ chợt ngừng. Thế là anh bắt đầu tự gõ, ban đầu anh gõ vào bức tường ngay cạnh cái thùng gỗ, bên kia là buồng 406, nhưng không thấy trả lời. Anh quay sang bức tường đối diện, cạnh cái giường ngủ, bên kia là buồng 402. Có tiếng đáp. Rubashov ngồi xuống chiếc giường sắt, mắt nhìn chằm chằm vào lỗ nhòm, tim đập thình thịch. Tiếp xúc đầu tiên bao giờ cũng hồi hộp như thế cả.

402 bắt đầu gõ một cách đều đặn, ba tiếng cách nhau một quãng ngắn, ngưng, rồi lại ba tiếng nữa, ngưng và ba tiếng nữa. Rubashov trả lời bằng cách nhắc lại đúng ba nhịp như thế để tỏ ra rằng anh đã nghe thấy. Anh sốt ruột chờ đợi, liệu người kia có biết cách truyền tín hiệu kiểu này hay không, nếu anh ta không biết thì mất công lắm. Bức tường dày và cách âm khá tốt thành ra để nghe rõ anh phải ghé sát tai vào tường đồng thời không được rời mắt khỏi lỗ nhòm. Nhưng hoá ra 402 là người có nhiều kinh nghiệm; anh ta gõ bằng một cái gì đó khá cứng, có thể là một cái bút chì, tiếng gõ dứt khoát, chậm rãi. Đã lâu Rubashov không phải làm như thế này, anh phải vừa nghe vừa cố nhớ lại cái bảng hình vuông có năm ô nằm ngang, mỗi ô là một chữ cái. 402 gõ năm tiếng, nghĩa là hàng thứ năm: từ V đến Z; sau đó lại gõ hai tiếng, nghĩa là chữ cái thứ hai trong hàng này: W. Ngừng một lúc lại gõ hai tiếng, hàng thứ hai đây, từ F đến J, rồi lại ba tiếng gõ nữa, nghĩa là chữ thứ ba trong hàng này: H. Sau đó lại gõ ba tiếng và năm tiếng; chữ thứ năm trong hàng thứ ba: O. Tiếng gõ ngừng hẳn.

WHO [1] ?

“Một người thực tế,” Rubashov tự nhủ. “Anh ta muốn biết ngay là mình đang nói chuyện với ai.”. Đúng ra, theo qui ước thì phải hỏi xem người đối thoại thuộc đảng phái nào, sau đó thì đến tin tức, rồi tới thuốc lá, thức ăn; mãi sau này, nhiều ngày sau, nếu chuyện đó có thể tiếp tục, thì người ta mới xưng tên tuổi với nhau. Nhưng Rubashov cũng biết rằng tại những quốc gia khi mà Đảng còn bị săn đuổi chứ chưa nắm quyền thì các đảng viên chỉ được biết bí danh của nhau, mà bí danh lại thay đổi thường xuyên đến nỗi chẳng còn ý nghĩa gì. Nhưng đây là trường hợp khác hẳn. Rubashov lưỡng lự, không biết nên làm thế nào. 402 có vẻ sốt ruột; anh ta nhắc lại: WHO?

Tại sao phải dấu? Rubashov tự nhủ. Anh gõ đầy đủ tên mình: NICOLAS SALMANOVITCH RUBASHOV và ngồi đợi.

Mãi vẫn không thấy trả lời. Rubachov khẽ mỉm cười, anh mường tượng được sự lúng túng của người bạn tù. Một phút, rồi hai phút, vẫn không thấy trả lời; Rubashov nhún vai và đứng dậy. Anh tiếp tục đi bách bộ trong phòng, nhưng mỗi lần đổi hướng anh đều dừng lại một chút và chú ý lắng nghe. Không thấy gì hết. Anh lấy kính lau vào ống tay áo rồi từ từ đi về lỗ nhòm để nhìn ra hành lang.

Hành lang vắng ngắt. Chỉ có ánh đèn vàng vọt, nhạt dần, xung quanh không một tiếng động nhỏ. Tại sao 402 không trả lời?

Có thể anh ta sợ; anh ta sợ Rubashov tố cáo. Có thể anh ta chỉ là một giáo sư hay kỹ sư chưa tham gia hoạt động chính trị bao giờ nên sợ đủ thứ. Chắc chắn là không có kinh nghiệm hoạt động chính trị, nếu có anh ta đã không hỏi tên ngay từ đầu. Bị bắt vì một vụ phá hoại nào đó. Chắc chắn là anh ta bị bắt lâu rồi nên mới gõ thạo như thế, nhưng anh ta vẫn tin là có thể chứng minh rằng mình vô tội. Và vẫn ngây thơ tin rằng số phận một con người, việc anh ta có tội hay không là quan trọng mà không biết rằng trong một cuộc chơi thì có những thứ còn quan trọng hơn rất nhiều. Có thể là lúc này anh ta đang ngồi trên giường và đang viết bản tường trình thứ một trăm, một bản tường trình chẳng ai thèm đọc hoặc đang viết cho vợ bức thư thứ một trăm mà vợ anh ta cũng chẳng được nhận; rồi vì tuyệt vọng mà anh ta đã để râu, chòm râu đen giống hệt như Pushkin, cũng chẳng thèm rửa mặt và còn thêm thói quen cắn móng tay cũng như bị những giấc mơ tình dục hành hạ nữa. Trong tù sự dằn vặt dữ dội nhất chính là nhận thức rằng mình là một người vô tội, nó làm người ta không thể quen được với hoàn cảnh, nó làm cho người ta nghi ngờ chính đức hạnh của mình…. Tiếng gõ vừa đột ngột vang lên đâu đây.

Rubashov ngồi xuống giường và chú ý lắng nghe, nhưng anh đã bỏ mất hai chữ cái đầu tiên. Lần này 402 gõ nhanh hơn và kém dứt khoát hơn lần trước, chắc là anh ta quá hồi hộp:

...NG ĐỜI

“ĐÁNG ĐỜI”

Thật không ngờ. Hoá ra 402 là một người theo quan điểm chính thống. Anh ta căm thù phe đối lập và tin rằng lịch sử đang chạy trên con đường do Anh Cả sáng suốt lựa chọn. Anh ta tin rằng vụ bắt giữ mình chỉ là một sự hiểu lầm, anh ta tin rằng tất cả những tai hoạ trong mấy năm vừa qua, từ Tây Ban Nha cho đến Trung Quốc, từ những vụ chết đói cho đến việc giết hại đội cận vệ già của cách mạng cũng chỉ là những sai lầm đáng tiếc hoặc là do những kẻ như Rubashov và những tên đối lập quỉ quyệt gây ra mà thôi. Hình ảnh chòm râu đen biến mất, thay vào đó là một người hoàn toàn khác: râu ria nhẵn nhụi, mặt mũi nghiêm trang, buồng giam sạch bóng, theo đúng nội qui trại. Đấy là loại người “bất tri lý”, tranh luận làm gì cho tốn công. Nhưng cắt đứt mối liên hệ duy nhất, mà cũng có thể là cuối cùng, với thế giới cũng không nên.

AI? Rubashov gõ một cách chậm rãi và dứt khoát.

Tiếng gõ đáp lại nghe vội vã như díu lại với nhau:

KHÔNG PHẢI VIỆC CỦA TÔI

TUỲ ANH, Rubashov trả lời và đứng lên tiếp tục đi bách bộ vì cho rằng cuộc nói chuyện đã chấm dứt. Nhưng tiếng gõ lại vang lên, lần này to hơn và rõ hơn nhiều, chắc là anh chàng 402 đã dùng đế giày đập vào tường cho chắc ăn:

HOÀNG ĐẾ VẠN TUẾ!

Hoá ra là như thế, Rubashov tự nhủ. Hoá ra vẫn còn những tên phản cách mạng thật sự chứ không phải như chúng ta nghĩ, không phải là Anh Cả bịa ra để biện hộ cho những thất bại của ông ta. Bên kia bức tường có một tên phản cách mạng thật sự, một nhân chứng sống của Anh Cả, một kẻ đang gào như đáng lẽ hắn phải gào: Hoàng đế vạn tuế….

AMEN, Rubashov vừa gõ vừa khẽ mỉm cười. Lời đáp vang lên ngay lập tức, lần này còn to hơn nữa.

THẰNG KHỐN!

Rubashov cảm thấy vui vui. Để thay đổi âm vực, anh tháo kính và lấy rìa kim loại gõ vào tường, tiếng gõ còn chậm rãi hơn và rõ ràng hơn mấy lần trước:

KHÔNG HIỂU RÕ LẮM

402 đã hoá điên. Anh ta liền gõ “ĐỒ CHÓ”, nhưng bỏ quên chữ H. Cơn tức giận bùng phát, anh ta gõ tiếp:

VÌ SAO BỊ BẮT?

Thật là thơ ngây, Rubashov tự nhủ. 402 lại đã có một khuôn mặt khác. Bây giờ trông anh ta giống một sĩ quan cận vệ trẻ, đẹp trai nhưng hơi đần. Có thể anh ta còn đeo cả kính một tròng nữa. Rubashov lại lấy kính gõ vào tường:

LỆCH LẠC VỀ CHÍNH TRỊ

Ngừng một lúc. Chắc là tay sĩ quan đang tìm một câu trả lời thật cay độc. Rồi anh ta gõ:

TUYỆT! BỌN CHÓ BẮT ĐẦU LÀM THỊT NHAU

Rubashov không trả lời. Thôi, đủ rồi; anh đứng lên và tiếp tục đi. Nhưng 402 lại thích tâm sự. Anh ta gõ tiếp:

RUBASHOV…

Anh chàng đã tỏ ra suồng xã rồi đây.

CÓ, Rubashov đáp.

Có vẻ như 402 có lưỡng lự một chút, sau đó anh ta gõ một câu dài:

ANH NGỦ VỚI ĐÀN BÀ LẦN CUỐI CÙNG KHI NÀO?

Chắc là anh ta đeo kính; có thể là anh ta dùng kính để gõ và đôi mắt trần đang chớp lia lịa. Nhưng Rubashov không cảm thấy khó chịu. Ít nhất anh ta cũng thể hiện rõ con người thật của mình, điều đó còn thú vị hơn việc anh ta hô khẩu hiệu tôn vinh hoàng đế. Rubashov lưỡng lự vài giây rồi gõ tiếp:

BA TUẦN TRƯỚC

Câu trả lời tiếp liền lập tức:

KỂ ĐI

Quá quắt hết chỗ nói. Rubashov đã định chấm dứt câu chuyện, nhưng sau đó anh nghĩ lại và cho rằng người này có thể hữu ích khi cần liên hệ với người tù ở buồng 400 và những tù nhân khác. Buồng bên trái không có người ở; cắt đứt với anh này thì sẽ mất liên lạc luôn. Rubashov không biết trả lời như thế nào. Sau đó anh chợt nhớ một bài hát tiền chiến, được nghe từ thời sinh viên trong một quán ăn có cả vũ nữ đi tất đen nhảy múa minh hoạ. Anh khẽ thở dài và lấy kính gõ:

NGỰC TRẮNG NHƯ BỌT LI SÂM BANH ĐẦY…

Anh hi vọng rằng 402 thích. Quả đúng như thế, anh ta giục:

TIẾP TỤC. CỤ THỂ VÀO.

Không nghi ngờ gì rằng lúc này anh ta đang hồi hộp vặt râu cằm của mình. Râu anh ta rõ ràng là thưa, phần cuối hơi vểnh lên. Quỉ tha ma bắt hắn đi, hắn là mắt xích duy nhất, cần phải chiều hắn vậy. Bọn sĩ quan thường bàn chuyện gì khi ăn? Gái và ngựa chứ còn gì nữa. Rubashov lau kính vào ống tay áo rồi gõ một cách đầy ý thức:

ĐÙI TO NHƯ ĐÙI NGỰA HOANG.

Hết. Chịu, không thể nào bịa thêm được nữa. Nhưng 402 có vẻ khoái.

TUYỆT!, hắn vui vẻ đáp. Chắc chắn là hắn đã phá lên cười, nhưng Rubashov không thể nào nghe được; chắn chắn là hắn đã vỗ đùi và vui vẻ xoắn chòm râu thưa và vểnh lên của mình, nhưng Rubashov không trông thấy gì. Trước mặt anh chỉ là một bức tường câm lặng.

TIẾP TỤC, 402 lại giục.

Nhưng anh không thể bịa thêm được nữa. HẾT, Rubashov lạnh lùng gõ, nhưng rồi anh hối hận ngay lập tức. Không được làm hắn giận. May là 402 không giận. Hắn tiếp tục gõ:

TIẾP TỤC ĐI…

Rubashov đã thành thạo đến nỗi không cần đếm các tiếng gõ, chúng tự động chuyển hoá thành lời. Anh có cảm giác như nghe rõ lời cầu khẩn của 402. Hắn lại đòi:

TIẾP ĐI – TIẾP ĐI

Rõ ràng là 402 còn khá trẻ, có thể hắn được sinh ra trong một gia đình sĩ quan lâu đời, đã lưu vong và được gửi về nước với một hộ chiếu giả và đang khổ sở lắm. Có lẽ hắn đã đeo kính lên, tay liên tục xoắn râu cằm và nhìn chằm chằm một cách tuyệt vọng vào bức tường trắng trước mặt.

KỂ NỮA ĐI.

Nhìn chằm chằm một cách tuyệt vọng vào bức tường trắng, câm lặng trước mặt; nhìn chằm chằm vào những vết loang lổ trên tường, rồi dần dần từ những vết loang lổ đó bỗng hiện lên hình ảnh người đàn bà ngực như li sâm banh đầy, còn đùi thì không khác gì đùi ngựa cái.

KỂ NỮA ĐI. XIN ÔNG KỂ NỮA ĐI.

Có thể lúc này hắn đang quì trên giường, tay khum lại như hai bàn tay người tù buồng 407 lúc nhận bánh mì cũng nên.

Và Rubashov sực nhớ lại hình ảnh tương tự như thế, đấy là đôi cánh tay cầu khẩn gầy gò đang giơ ra. Pietà [2]


9.

Pietà… Đấy là một buổi chiều, thứ hai đầu tuần, trong một phòng tranh ở miền Nam nước Đức. Gian phòng vắng ngắt, chỉ có Rubashov và một thanh niên đã hẹn gặp từ trước; họ ngồi nói chuyện cạnh một cái bàn tròn giữa căn phòng trống, các bức tường xung quanh treo đầy những bức tranh phụ nữ hở hang do các hoạ sĩ Flemish nổi tiếng một thời vẽ. Chuyện xảy ra vào năm 1933, những tháng đầu tiên của vụ khủng bố, trước khi Rubashov bị bắt không lâu. Phong trào ở Đức đã bị dẹp tan, các đảng viên bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, bị truy lùng và đánh đập cho đến chết. Đảng đã tan rã, nó giống như một con vật ngàn đầu, ngàn tay nhưng đang mất máu một cách nghiêm trọng. Trong những chi bộ riêng lẻ, hoạt động vẫn còn diễn ra nhưng thực ra đấy chỉ là những cú co giật của một con thú đã bị tử thương. Các nhóm nhỏ may mắn sống sót sau tai hoạ vẫn có mặt khắp nơi và đã đi vào hoạt động bí mật. Họ hẹn gặp nhau khi thì dưới tầng hầm, khi thì ở trong rừng, khi thì ở ga xe lửa, viện bảo tàng và câu lạc bộ thể thao. Họ phải thường xuyên thay đổi chỗ ở, thay đổi họ tên và cả thói quen nữa. Họ chỉ biết nhau qua bí danh và không bao giờ được hỏi địa chỉ của nhau. Số phận người này phụ thuộc vào người kia nhưng chả ai dám tin ai. Họ bí mật in truyền đơn để tự khẳng định và thuyết phục người khác rằng họ vẫn còn sống. Ban đêm họ luồn lọt trong những khu phố vắng ngoại ô và viết lên tường những khẩu hiệu cũ để chứng tỏ rằng họ vẫn tiếp tục hoạt động. Họ trèo lên ống khói nhà máy và treo lên đó những lá cờ cũ để chứng tỏ rằng họ vẫn còn hiện diện đâu đây. Chẳng có mấy người đọc truyền đơn, chỉ nhìn thấy chúng là người ta đã phát run lên rồi; khẩu hiệu thì bị xoá ngay, cờ thì bị xé bỏ, nhưng chúng lại xuất hiện, khi chỗ này, khi chỗ khác. Vì những nhóm nhỏ vẫn có mặt khắp nơi, họ tự gọi mình là “tử sĩ biết đi” và dành toàn bộ cuộc đời còn lại để chứng minh rằng mình vẫn còn sống.

Các nhóm này không thể liên lạc được với nhau vì đầu não của Đảng đã bị tiêu diệt, họ phải hoạt động một cách độc lập. Nhưng rồi các nhóm bắt đầu đưa người đi bắt liên lạc với các nhóm khác. Từ nước ngoài các thương nhân có vẻ giầu có với hộ chiếu giả và va li hai đáy với những tài liệu hướng dẫn bắt đầu thâm nhập khắp nơi. Họ thường bị bắt, bị tra tấn và bị giết. Người này chết thì có người khác đến thay. Đảng đã chết, nhưng cơn hấp hối thì vẫn tiếp tục, các lãnh tụ ở nước ngoài vẫn đưa vào cơ thể đã cứng ngắc của Đảng dòng điện kích hoạt để chân tay của nó tiếp tục lên những cơn co giật.

Pietà…Rubashov đi đi lại lại trong phòng, sáu bước rưỡi ra rồi sáu bước rưỡi vào, anh đã quên 402 rồi. Anh thấy mình đang ngồi bên chiếc bàn tròn trong phòng tranh, nồng nặc mùi bụi và mùi véc ni. Anh đã đi thẳng từ nhà ga đến đây, trước giờ hẹn mấy phút. Anh tin rằng không có cái đuôi nào bám theo cả. Anh đã cất chiếc va li đựng dụng cụ chữa răng đời mới nhất do một công ty Đan Mạch chế tạo trong tủ chứa đồ của phòng tranh. Anh ngồi cạnh chiếc bàn tròn, say sưa ngắm những bức vẽ phụ nữ hở hang treo đầy trên tường và đợi.

Chàng trai mang tên Richard, cầm đầu tổ chức Đảng trong thành phố đến muộn mất mấy phút. Anh ta chưa gặp Rubashov bao giờ, dĩ nhiên là Rubashov cũng chưa bao giờ gặp anh ta. Rubashov đặt trên đầu gối cuốn Faust của Goethe, đấy là tín hiệu nhận dạng. Vừa nhận ra cuốn sách, người thanh niên lập tức nhìn quanh rồi đến ngồi bên cạnh Rubashov. Anh ta có vẻ ngượng nên ngồi cách xa Rubashov, mũ đặt trên đầu gối. Anh ta vốn là thợ chữa khoá nhưng lúc này lại diện bộ com lê màu đen vì nếu mặc đồng phục bảo hộ mà vào bảo tàng viện thì bị nghi ngờ ngay.

“Xin lỗi, tôi đến muộn,” anh ta bảo.

“Không sao,” Rubshov đáp. “Trước hết cho xem qua người của anh. Anh có mang theo danh sách chứ?”

Chàng trai mang tên Richard vừa lắc đầu vừa nói: “Tôi không có danh sách. Tôi nhớ hết mọi người, cả họ tên lẫn địa chỉ.”

“Thôi được,” Rubashov bảo. “Nhưng nếu chúng bắt được anh thì sao?”

“Danh sách thì có,” Richard nói “nhưng tôi đưa cho Anny giữ rồi. Cô ấy là vợ tôi, anh ạ.”

Richard ngừng lời và nuốt nước miếng, cục yết hầu giật lên giật xuống liên hồi. Sau đó, đây là lần đầu tiên kể từ lúc hai người gặp nhau, anh ta nhìn thẳng vào mặt Rubashov. Hai con ngươi anh ta hơi lồi, đỏ đọc, với những tia máu chằng chịt; đôi gò má và cằm lún phún râu.

“Chúng bắt được cô ấy đêm hôm qua, anh ạ,” anh ta vừa nói vừa nhìn Rubashov như thể Rubashov, một phái viên của Ban Chấp hành Trung ương, thi triển được phép lạ và cứu được vợ anh ta vậy.

“Thế à?” Rubashov vừa hỏi vừa lau kính vào ống tay áo. “Bản danh sách rơi vào tay cảnh sát rồi chứ?”

“Không,” Richard đáp, “vì khi chúng tới thì trong nhà còn có một người chị dâu của tôi nữa, Anny đã kịp đưa bản danh sách cho chị ấy. Chị ấy thì theo chúng ta nhưng chồng lại là cảnh sát nên không sao đâu.”

“Tốt rồi,” Rubashov nói. “Thế lúc vợ bị bắt thì anh đang ở đâu?”

“Chuyện là thế này,” Richard trả lời. “Đã ba tháng nay tôi không ngủ ở nhà rồi. Chả là tôi có một người bạn làm nghề chiếu phim, khi rạp phim đóng cửa thì tôi có thể ngủ ở trong buồng chiếu phim. Có thể trèo từ ngoài phố, theo cầu thang cứu hoả. Còn được xem phim miễn phí nữa…” Anh ta lại ngừng để nuốt nước bọt. Anny cũng được anh ta cho vé miễn phí, khi đèn tắt thì cô ấy có thể quay lại, nhìn lên buồng chiếu. Cô ấy không nhìn thấy tôi, nhưng đôi khi tôi có thể nhìn rõ mặt cô ấy, nhất là khi màn ảnh có nhiều ánh sáng….”

Richard lại ngừng. Trước mặt họ là bức tranh “Ngày phán xử cuối cùng”: những tiểu thiên thần tóc quăn, mông múp míp vừa thổi kèn vừa bay vào những đám mưa dông. Bên trái là một bức tranh của một hoạ sĩ Đức; phần lớn bức tranh bị đầu Richard và thành ghế che khuất, Rubashov chỉ nhìn thấy một phần, đấy là đôi bàn tay gày guộc của Đức Mẹ Đồng Trinh đưa ra phiá trước và hơi khum lại như một cái bát cùng với một khoảng trời nhỏ không một gợn mây. Richard ngồi bất động như thế trong suốt buổi nói chuyện.

“Thế hả?” Rubashov nói. “Cô ấy bao nhiêu tuổi?”

“Mười bảy,” Richard đáp.

“Thế hả? Còn anh bao nhiêu?”

“Mười chín.”

“Có mấy cháu rồi?” vừa hỏi Rubashov vừa nghển cổ lên nhưng anh vẫn không nhìn thấy phần còn lại của bức tranh.

“Đây là cháu đầu,” Richard đáp. Anh vẫn ngồi bất động như một pho tượng.

Họ ngồi yên lặng một lúc, sau đó Rubashov yêu cầu cung cấp tên tuổi các đảng viên. Có khoảng ba mươi người. Rubashov hỏi thêm vài câu và ghi tên một số người vào cuốn sổ đặt hàng của hãng chế tạo dụng cụ chữa răng Đan Mạch. Anh ghi tên những người này xen giữa danh sách những bác sĩ chữa răng và những người nổi tiếng trong thành phố mà anh đã ghi từ một cuốn danh bạ điện thoại. Sau đó Richard nói:

“Bây giờ tôi xin báo cáo công tác của chúng tôi.”

“Được,” Rubashov đáp, “nói đi.”

Richard báo cáo. Anh ta vẫn ngồi bất động như thế, người hơi cúi về phía trước, hai bàn tay thô ráp và ửng đỏ đặt trên đầu gối. Anh kể về việc treo cờ trên ống khói nhà máy, về những khẩu hiệu viết trên tường, về những tờ truyền đơn dán trong phòng vệ sinh với một giọng đều đều và mệt mỏi như một nhân viên kế toán báo cáo sổ sách với ông chủ. Trước mặt anh ta là các thiên thần vừa thổi kèn vừa bay vào những đám mây dông, còn đầu anh thì che mất một phần bức tranh Đức Mẹ Đồng Trinh với đôi bàn tay gầy guộc đang đưa ra phía trước; còn trên tất cả các bức tường xung quanh là những phụ nữ da thịt, đùi vế ngồn ngộn đang nhìn xoáy vào họ.

Ngực trắng như bọt li sâm banh đầy, Rubashov chợt nhớ lại. Anh đứng trên hàng gạch đen thứ ba kể từ cửa sổ và chú ý lắng nghe xem 402 còn gõ nữa không. Không một tiếng động nhỏ. Anh đến gần lỗ nhòm để nhìn sang buồng 407 nơi ban nãy có người tù đưa bàn tay gày gò ra nhận mấy mẩu bánh mì. Nhưng tất cả chỉ là một tấm cửa bằng thép xám với một lỗ nhòm màu đen bé tí. Hành lang vẫn chìm trong ánh điện vô hồn và yên ắng như cũ, thật khó tin rằng đằng sau những cái cánh cửa kia lại có con người đang sống.

Rubashov bình thản lắng nghe Richard báo cáo. Trong số ba mươi người được Richard xâu chuỗi sau thảm hoạ chỉ còn mười bảy người hoạt động. Hai người, một là công nhân và vợ anh ta đã nhảy ra khỏi cửa sổ và hi sinh trước khi bị bắt. Một người đào ngũ, và không ai biết hiện nay anh ta đang ở đâu. Hai người bị nghi là mật vụ, nhưng cũng không chắc lắm. Ba người ra khỏi Đảng để phản đối chính sách của Ban Chấp hành Trung ương. Năm người, kể cả Anny bị bắt đêm qua, trong đó ít nhất có hai người đã chết. Như vậy là chỉ còn lại mười bảy người tiếp tục tham gia rải truyền đơn và viết biểu ngữ lên tường.

Richard thuật lại một cách tỉ mỉ nhằm giúp Rubashov hiểu rõ tất cả các mối liên hệ cá nhân và những vụ việc quan trọng; anh không biết rằng Ban Chấp hành Trung ương đã cài người của mình vào trong nhóm và người này đã báo cáo với Rubashov từ trước rồi. Anh cũng không biết rằng người này chính là bạn anh, tức là anh chàng nhân viên rạp chiếu bóng mà đêm đêm anh vẫn ghé ngủ nhờ; anh cũng không biết rằng người này chính là tình nhân của Anny. Richard không biết, nhưng Rubashov thì biết. Phong trào đã tan rã, nhưng Cục Bảo vệ và Cục Phản gián thì vẫn còn hoạt động và Rubashov chính là người đứng đầu tổ chức này. Chuyện này Richard cũng không biết, anh chỉ biết rằng Anny đã bị bắt, nhưng việc rải truyền đơn và kẻ khẩu hiệu thì vẫn phải tiếp tục làm; anh chỉ biết rằng Rubashov là phái viên của Trung ương, anh phải tin yêu như cha ruột mình nhưng đồng thời không được hé lộ bất cứ biểu hiện tình cảm hay sự dao động nào, dù là nhỏ nhất. Vì những kẻ uỷ mị và dao động thì không thể thực hiện được nhiệm vụ, sẽ bị khai trừ và rơi vào bóng tối cô đơn.

Có tiếng chân bước ngoài hành lang. Rubashov bước lại phía cửa, tháo kính và ghé sát mắt vào lỗ nhòm. Hai bảo vệ có đeo súng lục trên thắt lưng da đang dẫn giải một thanh niên có dáng nông dân, phía sau là người giám thị tay cầm một chùm chìa khoá. Nét mặt người tù mới không có một chút biểu hiện tình cảm nào, nhưng một con mắt thì sưng húp còn môi thì có một vệt máu khô; khi đi ngang buồng Rubashov anh ta bỗng giơ tay lên quệt vết máu đang rỉ ra ở mũi. Đoàn người khuất dần, phía xa có tiếng cửa mở rồi đóng lại. Chỉ có hai bảo vệ và người giám thị quay lại.

Rubashov tiếp tục đi bách bộ trong phòng. Trí tưởng tượng lại đưa anh trở về quá khứ, anh thấy mình như đang ngồi bên cái bàn tròn, Richard vừa báo cáo xong, xung quanh thật là yên tĩnh. Anh ta vẫn ngồi bất động như cũ, hai tay để trên đầu gối, chờ đợi. Như một con chiên vừa xưng tội xong. Rubashov yên lặng hồi lâu. Sau đó mới khẽ hỏi:

“Hết rồi hả?”

Richard gật đầu, cục yết hầu lại giật mạnh.

“Có một vài chỗ chưa rõ lắm,” Rubashov bảo. “Anh đã nói đến các khẩu hiệu và những tờ truyền đơn mà các anh tự làm. Chúng tôi đã phê bình nội dung những cái này nhiều lần rồi. Có một số câu Đảng không thể nào chấp nhận được.”

Richard hốt hoảng nhìn Rubashov, mặt anh ta đỏ lựng lên, những vệt máu trong con ngươi càng rõ hơn và dầy thêm.

“Mặt khác,” Rubashov tiếp tục, “chúng tôi vẫn thường xuyên gửi cho các đồng chí tài liệu để phân phát cho quần chúng, trong đó có những văn bản của Ban Chấp hành Trung ương. Các đồng chí có nhận được không?”

Richard gật đầu, mặt anh ta vẫn còn chưa hết đỏ.

“Nhưng các đồng chí đã không cho phân phát tài liệu do chúng tôi cung cấp; trong báo cáo không thấy nói gì đến chuyện đó cả. Trong khi đó các đồng chí lại cho phân phát những tài liệu chưa được Đảng chấp thuận.”

“Chúng…chúng tôi buộc…buộc phải làm…làm như…như thế,” khó khăn lắm Richard mới nói được câu đó.

Rubashov chăm chú ngắm chàng thanh niên, trước đó anh không hề biết rằng chàng ta có tật nói lắp. “Kỳ nhỉ,” anh chợt nghĩ, “đây là tay nói lắp thứ ba mình gặp trong hai tuần qua. Hoàn cảnh đã làm người ta như thế hay là bản thân phong trào chỉ thu hút được những kẻ bất thành nhân thế này...?”

“Các…các đồng...đồng chí phải…phải thông…thông cảm,” Richard tiếp tục một cách tuyệt vọng. “Tài…tài liệu của…của các đồng... đồng chí nặng...nặng nề quá….”

“Nói nhỏ thôi,” Rubashov gắt, “đừng quay đầu ra ngoài cửa.”

Một chàng trai mặc đồng phục màu đen của quân cận vệ tay ôm ngang eo cô bạn gái tóc vàng, còn tay cô ta thì đặt trên vai anh chàng vừa bước vào phòng tranh. Họ dừng lại trước bức tranh các tiểu thiên thần thổi kèn, lưng quay về phía Rubashov và người đồng sự.

“Nói tiếp đi,” Rubashov nói như ra lệnh rồi lấy bao thuốc lá ra. Nhưng sau đó chợt nhớ rằng không được hút thuốc trong viện bảo tàng, anh lại cho thuốc lá vào túi. Richard ngồi yên như thể bị thôi miên, anh ta nhìn trừng trừng hai người mới vào. “Nói tiếp đi,” Rubashov nhắc lại. “Anh nói lắp từ bé à? Nói đi. Đừng nhìn họ như thế.”

“Đôi…đôi…đôi khi,” phải cố gắng lắm Richard mới nói xong được mấy từ.

Đôi trai gái tiếp tục ngắm tranh. Họ dừng lại trước bức tranh vẽ người phụ nữ khoả thân đang nằm trên giường, mặt hướng về phía người xem. Chàng trai thì thầm cái gì đó, chắc là buồn cười, chỉ thấy cô gái khúch khích cười và đưa mắt liếc nhanh về phía Rubashov và Richard. Họ bước đến trước bức tranh vẽ tĩnh vật là mấy con gà lôi đã chết với vài quả táo.

“Chúng ta đi chứ?” Richard thì thầm.

“Không,” Rubashov đáp. Anh sợ rằng trong lúc bối rối như thế, nếu đứng lên Richard nhất định sẽ bị lộ. “Họ sẽ ra bây giờ đấy. Họ đứng sau chúng ta, không nhìn thấy đâu. Anh hãy thở thật chậm và sâu mấy lần. Tốt lắm đấy.”

Cô gái vẫn còn khúc khích cười trong khi hai người đang bước dần ra ngoài. Khi đi ngang, cả hai đều quay đầu nhìn về phía Rubashov và Richard. Sau đó, khi đã gần bước ra khỏi phòng cô gái bỗng đưa tay chỉ vào bức tranh Pietà và họ dừng lại cạnh bức tranh.

“Tôi nói lắp khó nghe lắm à?” Richard khẽ hỏi, mắt nhìn xuống dưới sàn nhà.

“Hãy cố gắng tự chủ,” Rubashov đáp. Anh không muốn câu chuyện tỏ ra thân mật.

“Không sao. Chỉ một lúc là hết mà,” Richard nói, cục yết hầu lại giật lên giật xuống không ngừng. “Anny vẫn thường diễu tôi chuyện này đấy.”

Trong khi hai người kia chưa đi ra thì Rubashov không thể lái câu chuyện theo đúng hướng được. Anh chàng mặc đồng phục đen đang tì hẳn lưng vào thành ghế của Rubashov. Nhưng mối hiểm nguy lại làm cho chàng thanh niên bớt ngại ngùng, anh ta thậm chí còn xích lại gần Rubashov thêm một chút.

“Nhưng dù sao thì cô ấy vẫn yêu tôi,” anh ta thì thầm, gần như không còn nói lắp nữa. “Tôi chẳng hiểu thể nào hiểu được cô ấy. Cô ấy không thích có con, nhưng không làm thế nào được. Có thể bọn chúng sẽ không hành hạ vì cô ấy đang có mang cũng nên. Tuy chưa trông rõ lắm. Chả lẽ chúng đánh cả đàn bà chửa à?”

Richard hất hàm về phía anh chàng mặc đồng phục. Đúng lúc đó anh chàng kia cũng ngoái lại, bốn mắt nhìn nhau trong giây lát. Anh chàng mặc đồng phục thầm thì gì đó với cô bạn gái; cô ta cũng quay đầu lại. Rubashov bóp chặt bao thuốc lá, nhưng lần này không rút ra. Cô gái cũng ghé tai anh chàng thì thầm gì đó rồi kéo bạn trai theo mình. Hai người chậm rãi bước ra khỏi phòng, sau khi họ đã ra đến bên ngoài người ta vẫn còn nghe thấy tiếng cô cười. Tiếng bước chân xa dần, xa dần rồi tắt hẳn.

Richard xoay người và nhìn theo cho đến khi họ đi khuất hẳn. Lúc anh ta xoay nghiêng, Rubashov có điều kiện nhìn rõ bức tranh hơn; thì ra đấy là đôi tay Đức Mẹ Đồng Trinh gầy guộc, nhỏ như bàn tay của một đứa trẻ, đang hướng về phía cây thánh giá nắm khuất bên trong.

Rubashov nhìn đồng hồ. Chàng thanh niên vô tình ngồi dịch ra xa một chút.

“Chúng ta thống nhất thế này,” Rubashov nói. “Nếu tôi không lầm thì các anh cố tình không phân phát các tài liệu do chúng tôi cung cấp vì không đồng ý với nội dung của chúng. Nhưng chúng tôi cũng hoàn toàn không đồng ý với nội dung các tờ truyền đơn của các anh. Hậu quả chắc chắn là phải có.”

Richard ngước đôi mắt đầy những tia máu đỏ nhìn Rubashov.

“Chính đồng chí cũng biết rằng các tài liệu đó nói toàn những chuyện nhảm nhí,” Richard chán nản trả lời. Anh ta không còn nói lắp nữa.

“Không, tôi chẳng biết gì cả,” Rubashov đáp cộc lốc.

“Các anh làm như chưa có chuyện gì xảy ra vậy,” Richard vẫn nói với giọng mệt mỏi như cũ. “Chúng đã đánh cho Đảng tơi tả thế mà các anh vẫn viết về ý chí quyết thắng giống hệt báo chí thời Đại chiến vậy. Người ta sẽ nhổ vào những tài liệu như thế. Các anh phải biết điều đó chứ.”

Rubashov nhìn xéo chàng trai, anh ta hơi cúi về phía trước, khuỷu tay đặt lên đầu gối, cằm chống lên hai nắm tay.

“Đây là lần thứ hai anh định gán cho tôi quan điểm của anh. Tôi đề nghị chấm dứt kiểu đó đi,” Rubashov nói.

Richard ngước nhìn, trong tròng mắt đỏ đọc của anh ta ánh lên mối ngờ vực. Rubashov vẫn tiếp tục nói:

“Đảng đang trải qua giai đoạn thử thách khắc nghiệt. Các đảng cách mạng khác cũng đã từng phải vượt qua những giai đoạn còn khó khăn hơn. Nhân tố quyết định là ý chí quyết thắng của con người. Những kẻ uỷ mị và dao động thì không thể đứng trong hàng ngũ của chúng ta được. Những kẻ cố tình gây ra cảnh hoảng loạn là tay sai của kẻ thù đấy. Động cơ là gì thì cũng vậy thôi. Họ đang phá hoại phong trào và sẽ bị xử lý thích đáng.”

Richard quay mặt về phía Rubashov, cằm vẫn chống lên hai nắm tay như cũ.

“Hoá ra tôi đã phá hoại phong trào,” anh ta nói. “Hoá ra tôi là tay sai của kẻ thù. Hay là tôi được chúng trả tiền để làm chuyện đó? Cả Anny cũng thế à …?”

“Trong các tờ truyền đơn mà anh nói là do anh viết,” giọng Rubashov vẫn khô khan như cũ “có những câu như: Chúng ta đã bị thất bại, Đảng đã gặp phải tai hoạ, chúng ta phải khởi sự từ đầu và phải thay đổi đường lối một cách toàn diện. Đấy gọi là thất bại chủ nghĩa, làm giảm sức chiến đấu của Đảng.”

“Tôi chỉ biết một điều,” Richard nói, “đấy là phải nói cho quần chúng biết sự thật, cái sự thật mà mọi người đều đã biết rồi. Lúc này mà còn che dấu thì thật là lố bịch.”

“Trong đại hội vừa rồi,” Rubashov tiếp tục “Đảng đã tuyên bố là không gặp thất bại mà chỉ là tạm thời rút lui về mặt chiến lược và không có lý do gì mà phải thay đổi chính sách cả.”

“Nhưng đấy cũng là nói dối,” Richard đáp.

“Nếu anh còn tiếp tục như thế,” Rubashov đáp, “thì tôi cho rằng chúng ta nên kết thúc câu chuyện ở đây.”

Richard không trả lời. Trời bắt đầu tối, đường nét của những thiên thần và phụ nữ trong những bức tranh trên tường trở nên mờ ảo hơn.

“Xin lỗi,” Richard nói, “ ý tôi là lãnh đạo Đảng đã lầm. Các đồng chí nói về rút lui chiến lược trong khi một nửa đảng viên của chúng ta đã bị giết, những người thoát nạn thì chỉ mong sống nên đã chạy sang phía kẻ thù. Những nghị quyết mà các anh soạn ra ở ngoại quốc chẳng mang lại lợi ích gì hết….”

Bóng tối làm cho đường nét của Richard cũng trở nên mờ ảo. Anh ta ngừng vài giây rồi nói tiếp:

“Việc của Anny đêm qua cũng là ‘rút lui chiến lược’ đấy. Xin đồng chí hiểu cho là chúng tôi đang bị săn đuổi chẳng khác gì thú vật….”

Rubashov chờ xem anh ta còn nói gì nữa không, nhưng Richard ngồi yên. Bóng đêm đổ xuống rất nhanh. Rubashov cầm kính lên và lau vào ống tay áo.

“Đảng không bao giờ sai,” Rubashov bình thản nói. “Đồng chí có thể sai, tôi có thể sai, mỗi người chúng ta đều có thể sai. Nhưng Đảng thì không. Đảng là hiện thân của lý tưởng cách mạng trong tiến trình lịch sử. Lịch sử không biết dao động là gì. Nó chỉ có tiến, tuy chậm chạp nhưng bao giờ cũng hướng đến mục đích đã xác định. Trên mỗi khúc quanh của lịch sử đều có vô số xác của những kẻ chậm tiến và lầm lạc. Lịch sử không bao giờ lầm lẫn và không gì có thể ngăn chặn được. Chỉ những ai tin tưởng tuyệt đối vào tiến trình Lịch sử mới có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng.”

Richard không nói gì, cằm anh vẫn chống trên hai nắm tay, mặt quay về phía Rubashov, bất động. Thấy anh ngồi im, Rubashov tiếp tục:

“Các anh đã không phân phát tài liệu do chúng tôi cung cấp; các anh đã chặn đứng tiếng nói của Đảng. Các anh đã rải những tờ truyền đơn với những lời lẽ sai lầm và có hại. Các anh viết: ‘Các lực lượng còn lại của phong trào cách mạng phải tập hợp lại và tất cả những lực lượng thù địch với chính thể chuyên chế phải thống nhất lại, chúng ta phải chấm dứt cuộc đấu tranh trong nội bộ và bắt đầu cuộc chiến đấu mới’. Thế là sai. Đảng không thể liên kết với bọn cải lương. Họ đã phản bội phong trào nhiều lần rồi và nhất định sẽ còn phản bội nhiều lần nữa. Liên minh với họ cũng có nghĩa là chôn vùi cách mạng. Các anh viết: ‘Khi nhà cháy thì mọi người phải tham gia dập lửa, nếu cứ tranh luận về phương pháp thì nhà sẽ cháy ra tro’. Thế là sai. Chúng ta thì phun nước cứu hoả, trong khi những kẻ khác lại đổ dầu vào. Cho nên trước khi đoàn kết phải nói đến phương pháp chữa cháy đã. Không thể làm chính trị theo kiểu đó. Không thể vội vàng, hấp tấp được. Đường lối của Đảng đã được xác định một cách cực kỳ chính xác, như một con đường hẹp giữa hai sườn núi. Trượt chân một cái, dù tả hay hữu cũng là xong. Cần phải kiên định, chỉ một phút dao động là hỏng.”

Trời càng lúc càng tối thêm, Rubashov đã không còn nhìn thấy hai bàn tay Đức Mẹ nữa. Hai hồi chuông ré lên một cách đột ngột, mười lăm phút nữa viện bảo tàng sẽ đóng cửa. Rubashov nhìn đồng hồ, chỉ còn một việc: tuyên án và buổi gặp sẽ kết thúc. Richard ngồi yên lặng, gần như bất động, khuỷu tay tì lên đầu gối.

“Vâng, tôi chẳng biết nói thế nào nữa,” cuối cùng anh ta lên tiếng, giọng vẫn mệt mỏi và chán nản như cũ. “Anh nói hoàn toàn đúng. Con đường hẹp giữa hai sườn núi cũng hoàn toàn đúng. Nhưng dù sao thì chúng ta cũng bị đánh tơi tả rồi. Những người còn sống thì đã đào ngũ hết. Có thể là con đường của chúng ta lạnh lẽo quá chăng. Còn đường của người ta thì có tiếng kèn, tiếng sáo; có cờ hoa và lửa sưởi. Có phải vì thế mà họ thắng? Và vì thế mà tất cả chúng ta thất bại chăng?”

Rubashov không trả lời. Anh muốn nghe tiếp, rồi sau đó mới tuyên án. Dù Richard có nói gì thì bản án cũng đã được định đoạt rồi, nhưng anh vẫn kiên nhẫn đợi.

Bóng tối làm cho thân hình vạm vỡ của Richard càng trở nên mờ ảo hơn. Anh ta đã ngồi dịch ra xa thêm một chút; hai vai so lại, đôi bàn tay gần như chụp kín lấy mặt. Rubashov cũng ngồi bất động, yên lặng chờ đợi. Anh cảm thấy hơi đau ở hàm trên, chắc là tại cái răng sâu. Một lúc sau Richard mới lên tiếng:

“Tôi phải làm gì bây giờ?”

Rubashov lấy lưỡi tìm cái răng sâu. Anh cảm thấy cần phải đưa ngón tay lúc lắc cái răng sâu trước khi nói, nhưng kìm lại được và lạnh lùng bảo:

“Tôi phải thông báo rằng, theo quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, từ nay anh không còn là đảng viên nữa.”

Richard không có phản ứng gì. Rubashov ngồi thêm một lúc rồi đứng lên. Richard vẫn ngồi. Anh chỉ khẽ ngước mắt lên và hỏi:

“Anh đến đây vì việc này à?”

“Chủ yếu là thế,” Rubashov nói. Cần phải đi ngay, nhưng anh vẫn đứng trước mặt Richard và đợi.

“Tôi phải làm gì bây giờ?” Richard lại hỏi. Thấy Rubashov không trả lời, Richard tiếp tục:

“Từ nay tôi không được ngủ ở phòng chiếu phim của bạn tôi nữa à?”

Sau vài giây lưỡng lự, Rubashov đáp:

“Tốt nhất là không.”

Anh lập tức cảm thấy ân hận vì đã nói câu đó, đồng thời anh cũng không tin rằng Richard đã hiểu đúng ý mình. Anh cúi nhìn chàng thanh niên một lần nữa và bảo:

“Tốt nhất là chúng ta nên đi tách ra. Thôi, xin chào.”

Richard ngồi thẳng lên nhưng vẫn không đứng dậy. Trong bóng tối chập choạng, Rubashov chỉ có thể đoán được những ý nghĩ đang loé lên trong đôi mắt đỏ ửng và hơi lồi của chàng trai trẻ mà thôi, nhưng hình ảnh của chàng công nhân tuyệt vọng, chìm trong bóng đêm thì sẽ còn ở lại trong tâm trí anh suốt đời.

Rubashov bước ra khỏi phòng đó và một phòng nữa, cả hai phòng đều tối và vắng lặng như nhau. Không một tiếng động nhỏ, tiếng bước chân trên mặt sàn gỗ nghe rõ mồn một. Chỉ sau khi đi ra ngoài rồi anh mới sực nhớ là mình chưa kịp xem bức tranh Pietà. Hai bàn tay Đức Mẹ gầy guộc, khum khum đang giơ lên; đấy là tất cả những gì còn lại trong đầu.

Anh dừng lại ngay trên tam cấp lối ra. Cái răng sâu càng đau hơn, trời lạnh. Anh quấn chặt cái khăn màu xám cũ quanh cổ. Đèn điện trên quảng trường trước mặt viện bảo tàng đã bật sáng, giờ này ở đây rất vắng, một chiếc tàu điện vừa đi vừa rung chuông trên con phố hẹp hai bên trồng đầy những cây du nhỏ. “Không biết có taxi không?” Rubashov vừa tự hỏi vừa bước xuống đường.

Richard đuổi kịp Rubashov khi anh vừa đặt chân xuống phố và lầm lũi đi theo. Rubashov tiếp tục bước, không nhanh hơn và cũng không chậm hơn, mắt vẫn nhìn thẳng. Richard vừa cao hơn, vừa to hơn, nhưng lúc này, đi bên cạnh Rubashov anh ta phải so vai lại và bước chậm hơn. Đi được mấy bước và sau khi lấy hết can đảm Richard mới dám lên tiếng:

“Có phải khi tôi hỏi liệu tôi có được đến ngủ ở chỗ người bạn và anh nói rằng tốt nhất là không là một lời cảnh báo không?”.

Rubashov nhìn thấy một chiếc taxi, anh đứng đợi ngay khúc quanh. Richard cũng dừng lại ngay bên cạnh.

“Tôi đã nói hết rồi, Richard ạ,” Rubashov vừa nói vừa giơ tay ra hiệu cho taxi dừng lại.

“Đồng...đồng...chí không...không thể coi.. coi tôi là kẻ thù được….” Richard nói. Chiếc taxi đã giảm tốc độ, nó chỉ còn cách họ chừng hai mươi bước chân. Richard nhìn thẳng vào mắt Rubashov và nắm lấy ống tay áo anh. Rubashov cảm thấy cả hơi thở và luồng không khí vừa ấm vừa nóng phà thẳng vào trán mình.

“Tôi không phải là kẻ thù của Đảng,” Richard nói. “Đồng chí không được làm thế. Bọn chó ấy sẽ giết tôi....”

Chiếc xe đã dừng hẳn, chắc chắn là người tài xế đã nghe được mấy lời cuối cùng. Đuổi Richard đi là việc vô ích, hơn nữa, ngay đằng trước, chỉ cách vài chục mét đang có một viên cảnh sát. Người lái xe, một lão già nhỏ thó, mặc một chiếc áo khoác da, lạnh lùng liếc xéo Rubashov.

“Ra ga,” Rubashov vừa nói vừa bước vào xe. Người tài xế ngoái lại và vòng tay đóng chiếc cửa sau. Richard đứng trên hè phố, tay vẫn giữ khư khư cái mũ, yết hầu chạy lên chạy xuống không ngừng. Taxi lấy đà và tăng tốc, rồi chạy ngang qua viên cảnh sát. Rubashov cố tình không ngoái cổ lại, nhưng anh biết rằng Richard vẫn đứng trên hè phố, mắt không ngừng dõi theo ánh đèn đỏ phía sau xe của anh.

Họ đi qua những khu phố đông đúc, thỉnh thoảng người lái xe lại quay đầu nhìn, dường như ông ta muốn khẳng định rằng ông khách vẫn còn ngồi trên xe. Rubashov chẳng hiểu gì phố xá ở đây cho nên cũng không biết chắc là họ có đi theo hướng ra ga hay không. Phố xá thưa dần, rồi cuối đường có một ngôi nhà khá to với một chiếc đồng hồ sáng rực, xe dừng lại. Đến ga rồi.

Ở đây taxi chưa có máy tính tiền, Rubashov vừa bước ra vừa hỏi:

“Tôi phải trả bao nhiêu?”

“Không cần,” người tài xế đáp. Mặt ông ta đầy vết nhăn. Ông ta rút từ trong túi áo ra một chiếc khăn mùi xoa mầu đỏ và xỉ mũi ầm ĩ.

Rubashov chăm chú quan sát người tài xế. Anh chưa từng gặp ông ta bao giờ, chắc chắn là như thế. Người tài xế cho khăn mùi xoa vào túi.

“Không bao giờ chúng tôi lấy tiền của những người như các ông,” ông ta vừa nói vừa lúc lắc tay phanh. Rồi bất ngờ ông ta đưa tay ra ngoài. Hai bàn tay già nua, gân nổi sần sùi, móng tay cáu bẩn. “Chúc ông vạn sự như ý,” ông ta vừa nói vừa cười ngượng nghịu. “Nếu người bạn trẻ của ông cần gì thì xin nhớ: tôi luôn đậu trước viện bảo tàng. Ông có thể cho anh ta số xe của tôi.”

Rubashov bỗng nhìn thấy ở bên phải đường có một người phu khuân vác đứng tựa lưng vào cột điện và đang chăm chú quan sát họ. Anh không bắt tay người lái xe mà chỉ đặt vào bàn tay đang giơ ra một đồng xu rồi im lặng bước vào nhà ga.

Một giờ sau tầu mới chạy. Anh uống một li cà phê rẻ tiền, cái răng sâu càng đau hơn. Vừa lên tầu là anh đã ngủ ngay lập tức, anh mơ thấy mình đang chạy ngay trước mặt đoàn tầu. Richard và người lái xe taxi đang lái tầu, họ muốn cán chết anh vì anh không trả đủ tiền vé. Bánh xe ngày càng gần hơn, mà chân thì không nhấc lên được. Khi tỉnh dậy anh thấy buồn nôn, trán lấm tấm mồ hôi lạnh; mấy người ngồi cùng khoang nhìn anh tỏ vẻ ngạc nhiên. Bên ngoài, trời tối như hũ nút, con tàu đang lao đi trong màn đêm của đất nước thù địch; cần phải giải quyết xong việc của Richard; răng nhức không thể chịu nổi. Ba tuần sau Rubashov bị bắt.


Đợt thẩm vấn thứ nhất (1-9) Đợt thẩm vấn thứ nhất (10-14) Đợt thẩm vấn thứ hai Đợt thẩm vấn thứ ba Vĩ thanh Thay lời bạt

[0]Tủ sách talawas, chuyên đề “Sách xuất bản tại miền Nam trước 1975” sẽ đăng lại bản dịch này trong thời gian tới.
[1]Ai?
[2]Bức hoạ hoặc tượng Đức mẹ đồng trinh bế thi hài Chúa Giê-su trong lòng.

Tác giả Arthur Koestler sinh ngày 05.9.1905 tại Budapest, mất ngày 3.3.1983 tại London, là nhà văn Áo gốc Hung, viết chủ yếu bằng tiếng Đức và tiếng Anh, có một số tác phẩm viết bằng tiếng Pháp và tiếng Hung.

Dịch giả Phạm Minh Ngọc sống tại Việt Nam, đã công bố hàng chục tác phẩm dịch quan trọng từ tiếng Nga và tiếng Anh trên talawas:

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài