talawas chủ nhật

 
Tác phẩm dịch :: 22.10.2006
Mikhail BulgakovNghệ nhân và Margarita

Phần 1 Phần 2 Phần phụ lục

Mikhail Bulgakow
Mikhail Bulgakow (1891-1940)

“Trong di sản văn học nhân loại không ít những tác phẩm để đến được bạn đọc phải trải qua bao gian truân, tốn bao công sức, nhưng một số phận như Nghệ nhân và Margarita quả thật hiếm có. Ðược viết trong mười hai năm, bắt đầu từ năm 1928 với cái tên dự định là Tiểu thuyết về quỷ sứ, bị xé, bị đốt, viết đi viết lại bảy lần; cho đến năm 1940 nằm trên giường bệnh, mắt lòa, Bulgakov vẫn đọc cho vợ sửa chữa; sau khi nhà văn qua đời, người vợ tận tụy là Elena Sergheevna Bulgakova cùng bạn bè và những người hâm mộ ông sau hơn một phần tư thế kỷ chạy vạy mới công bố được tác phẩm bị cắt xén "một cách man rợ" trên tờ tạp chí Moskva. Nhưng ngay ở dạng bị lược bỏ này cuốn tiểu thuyết cũng gây nên chấn động lớn…” (Đoàn Tử Huyến)

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn văn tác phẩm đặc sắc này qua bản dịch từ nguyên bản tiếng Nga của Đoàn Tử Huyến.

talawas chủ nhật

Mikhail Bulgakov

Nghệ nhân và Margarita

Đoàn Tử Huyến

Phần 2

Chương 19: Margarita Chương 20: Hộp kem Azazello Chương 21: Chuyến bay Chương 22: Dưới ánh nến Chương 23: Ðại vũ hội của Chúa quỷ Satan Chương 24: Sự giải thoát cho nghệ nhân Chương 25: Quan tổng trấn đã cố gắng cứu tên Giuda ở thành phố Kiriaph như thế nào? Chương 26: Việc chôn cất Chương 27: Kết cục của căn hộ số 5 Chương 28: Những trò phiêu lưu cuối cùng của Koroviev và Beghemot Chương 29: Số phận của nghệ nhân và Margarita đã được định đoạt Chương 30: Ðã đến lúc! Ðã đến lúc! Chương 31: Trên đồi Vorobiev Chương 32: Sự tha thứ và chốn nương thân muôn đời Phần kết

 

Chương 22:
Dưới ánh nến



Tiếng động đều đều của cỗ xe bay rất cao trên mặt đất đã dần dần ru ngủ Margarita, ánh trăng sưởi ấm nàng một cách dễ chịu. Nhắm mắt lại, nàng ngẩng mặt đón gió, ít nhiều buồn bã nghĩ về cái bờ sông xa lạ nàng vừa rời bỏ, và Margarita có cảm giác rằng nàng sẽ không bao giờ được trông thấy nó nữa. Sau tất cả các phép lạ và những điều kỳ diệu của buổi tối hôm nay, nàng đã đoán được rằng người ta đang đưa nàng đến để gặp ai, nhưng điều đó không còn làm nàng sợ hãi. Cái hy vọng rằng ở đó nàng sẽ được giúp đỡ để tìm lại hạnh phúc của mình đã làm cho nàng trở nên không biết sợ. Nhưng thật ra nàng cũng không có nhiều thời gian để ngồi trong xe mơ ước về cái hạnh phúc đó. Chẳng hiểu là lái xe quạ rất thông thạo công việc của mình hay là do cỗ xe quá tốt, nhưng chỉ một chốc sau, khi Margarita mở mắt ra, nàng đã trông thấy ở phía dưới không còn những khoảng rừng tối đen, mà là một mặt hồ lung linh ánh điện của Moskva. Lái xe quạ đen vừa bay vừa vặn tháo bánh xe trước bên phải ra rồi hạ cỗ xe xuống một nghĩa địa tuyệt đối vắng người ở Dorogomilovo. Sau khi đỡ Margarita cùng với cây bàn chải cọ sàn của nàng xuống xe - nàng im lặng không hỏi han bất kỳ một điều gì - quạ đen nổ máy hướng cỗ xe thẳng xuống lòng khe ở phía sau nghĩa địa. Nó ầm ầm lăn xuống đó rồi chết lặng. Quạ đen kính cẩn đưa tay chào, ngồi cưỡi lên chiếc bánh xe, bay đi mất.

Ðúng lúc ấy, từ phía sau một cột bia xuất hiện tấm áo choàng đen. Một chiếc răng nanh loáng lên dưới ánh trăng, và Margarita nhận ra đó là Azazello. Azazello ra hiệu mời Margarita cưỡi lên cán cây bàn chải cọ sàn, còn mình nhảy lên thanh kiếm; cả hai bay vút lên không và mấy giây sau, không một ai nhìn thấy, đã hạ xuống gần ngôi nhà số 302-bis trên phố Sadovaia.

Khi hai kẻ đồng hành, kẹp cây bàn chải cọ sàn và thanh kiếm dưới nách, đi qua cổng vào nhà, Margarita nhìn thấy một người đàn ông, đội mũ cát két đi ủng cao cổ, dáng mệt mỏi đứng cạnh cửa, có lẽ là đang chờ ai đó. Dù cho bước chân của Azazello và Margarita có nhẹ đến mấy, người đàn ông đứng cô đơn kia vẫn nghe thấy và giật mình nhìn quanh, không hiểu những tiếng động đó là do ai gây ra.

Người đàn ông thứ hai, giống người thứ nhất đến mức kinh ngạc, họ gặp ở cổng cầu thang số sáu. Và sự việc lại lặp lại. Những bước chân... Người đàn ông lo lắng nhìn quanh, mặt cau có. Khi cánh cửa mở ra và đóng lại, anh ta chạy theo hai người tàng hình vừa mới bước qua, nhìn vào cổng cầu thang, nhưng tất nhiên là không thể trông thấy cái gì cả.

Người thứ ba, một bản sao giống hệt người thứ hai, và có nghĩa là cũng giống người thứ nhất, túc trực ở đầu cầu thang tầng ba. Anh ta hút một thứ thuốc lá rất nặng, và Margarita bật lên ho khi đi ngang qua. Như bị ong đốt, người hút thuốc nhảy vọt dậy khỏi chiếc ghế băng đang ngồi, lo lắng nhìn quanh, rồi bước đến bên hàng tay vịn cầu thang, ngó xuống dưới. Trong khi đó, Margarita cùng với người dẫn đường của mình đã ở cạnh cửa ra vào của căn hộ số 50. Không gọi chuông, Azazello nhẹ nhàng mở cửa bằng chìa khóa của mình.

Ðiều đầu tiên làm Margarita kinh ngạc là cái bóng tối mà nàng rơi vào. Không trông thấy gì cả, chẳng khác gì dưới lòng đất. Margarita bất giác bám vào vạt áo của Azazello để khỏi vấp ngã. Nhưng liền đó, ở phía xa trên cao bắt đầu hiện ra nhấp nháy ánh lửa của một ngọn đèn nào đó đang tiến đến gần. Vừa bước đi, Azazello vừa rút cây bàn chải cọ sàn từ dưới nách Margarita ra, và nó biến mất vào bóng tối không gây một tiếng động nào. Rồi họ bắt đầu leo lên cao theo những bậc thang rộng, và Margarita cảm thấy như chúng sẽ không bao giờ kết thúc. Nàng kinh ngạc khi nhận ra rằng phòng ngoài của một căn hộ bình thường ở Moskva lại có thể chứa nổi cái cầu thang khác thường tuy không nhìn thấy nhưng lại cảm thấy rất rõ là kéo dài vô tận này. Nhưng liền đó họ dừng lại, và Margarita hiểu rằng nàng đang đứng ở khoảng rộng đầu cầu thang. Ánh lửa đã tiến đến sát kề, Margarita trông thấy khuôn mặt được chiếu sáng của một người đàn ông đen ngòm, cao lênh khênh, tay cầm chính ngọn đèn đó. Những ai chẳng may đã gặp phải người này trong những ngày qua đều lập tức nhận ra anh ta, ngay cả dưới làn ánh sáng yếu ớt tỏa ta từ ngọn đèn cầm tay. Ðó là Koroviev, anh ta cũng còn là Phagot. Ðúng ra, vẻ ngoài của Koroviev đã thay đổi rất nhiều. Ánh lửa chập chờn của ngọn đèn không còn phản chiếu lên cặp kính kẹp mũi nứt rạn đáng lẽ phải ném vào hố rác từ lâu, trên mặt anh ta giờ là chiếc kính một mắt, thật ra mà nói cũng bị nứt rạn. Những sợi ria trên khuôn mặt trâng tráo được vuốt quăn lên và bôi kem. Còn màu đen của Koroviev có thể giải thích một cách hết sức đơn giản: anh ta mặc bộ lễ phục đuôi tôm. Chỉ có ngực áo là màu trắng. Nhà ảo thuật, người phiên dịch, quản ca, phù thủy, hay chỉ có quỷ sứ mới biết thực sự anh ta là ai, - tóm lại, Koroviev, - nghiêng người chào và vung ngọn đèn một vòng rộng trong không khí, mời Margarita đi theo mình. Azazello đã biến mất.

“Một buổi tối thật lạ lùng, - Margarita nghĩ thầm, - mình đã chờ đợi mọi thứ, chỉ có điều không phải như thế này. Chẳng lẽ ở chỗ họ bị mất điện hay sao? Nhưng cái điều kỳ lạ nhất, là kích thước của căn nhà. Làm sao tất cả những thứ này có thể ở trong một căn hộ của Moskva được? Dứt khoát là không thể được!”

Dù cho cây đèn của Koroviev có tỏa ánh sáng yếu ớt đến mấy, Margarita vẫn hiểu ngay rằng nàng đang ở trong một gian phòng rộng mênh mông, mà lại còn thêm những dãy cột lớn, tối thẫm và theo ấn tượng đầu tiên là nhiều vô tận. Koroviev dừng lại cạnh chiếc ghế đi văng nào đó, đặt cây đèn lên một cái tủ thấp, đưa tay ra hiệu mời Margarita ngồi, tự mình cũng ngồi xuống bên cạnh trong một tư thế rất điệu - bàn tay chống cằm, khuỷu tay đặt lên mặt tủ.

«Thưa bà chị, xin phép được tự giới thiệu, - Koroviev cất giọng kèn kẹt, - tôi là Koroviev. Bà chị ngạc nhiên là không có điện phải không? Chắc hẳn là bà chị nghĩ để tiết kiệm chứ gì? Không, không phải, tuyệt đối không phải thế! Nếu đúng là như thế thì cứ để bất cứ tên đao phủ nào gặp đầu tiên, - dù cho là một trong số những tên mà hôm nay, chỉ lát nữa thôi, sẽ được hân hạnh hôn lên đầu gối bà chị, - chặt đứt đôi đầu tôi ra ngay trên chiếc tủ này. Mà chỉ đơn giản là vì messir không thích ánh sáng điện, và chúng tôi sẽ chỉ bật đèn lên trong thời khắc cuối cùng. Và lúc đó bà chị hãy tin rằng nó sẽ không thiếu đâu. Thậm chí nếu bớt đi được một ít thì có lẽ còn tốt hơn.»

Margarita cảm thấy thích Koroviev, những lời ba hoa liến thoắng của anh ta làm cho nàng tĩnh tâm lại.

«Không phải thế, - Margarita đáp, - cái làm cho tôi ngạc nhiên hơn là tất cả những cái này có thể chứa ở đây được», - nàng vung tay nhấn mạnh kích thước rộng lớn vô tận của gian phòng.

Koroviev khịt mũi đầy khoái trá, làm bóng đen của những nếp nhăn trên mũi khẽ lay động.

«Trong tất cả mọi chuyện, đó lại là điều đơn giản nhất! - anh ta nói. - Ðối với những ai biết thế nào là chiều đo thứ năm thì việc đẩy kích thước của gian phòng xa đến bất kỳ giới hạn nào mình muốn là một việc làm chẳng khó khăn gì. Tôi xin nói với bà chị kính mến, chỉ có quỷ mới biết là tới giới hạn như thế nào! Thêm vào đó, - Koroviev tiếp tục ba hoa, - tôi từng biết những kẻ hoàn toàn không có một tí khái niệm nào không chỉ về chiều đo thứ năm, mà nói chung hoàn toàn không có một khái niệm nào về bất cứ một cái gì mà vẫn làm nên những điều tuyệt đối kỳ diệu trong ý nghĩa mở rộng kích thước nhà ở của mình. Lấy thí dụ, tôi được nghe người ta kể lại rằng có một công dân thành phố Moskva sau khi được phân một căn hộ ba phòng ở khu Lũy Ðất liền ngay tức khắc, không cần đến chiều đo thứ năm và tất cả những điều rối rắm khác, đã biến nó thành căn hộ bốn phòng bằng cách xây vách ngăn một trong số ba phòng kia ra làm đôi. Sau đó, anh ta đổi căn hộ đó lấy hai căn hộ riêng biệt ở các quận khác nhau ở Moskva - một căn hộ ba phòng và một căn hộ hai phòng. Bây giờ bà chị hãy nhớ là anh ta đã có tất cả năm phòng. Căn hộ ba phòng anh ta đổi lấy hai căn hộ riêng biệt hai phòng, và trở thành chủ nhân, như bà chị thấy đấy, của sáu phòng, tuy thật ra chúng nằm rải rác vô trật tự khắp thành phố Moskva. Anh ta đã chuẩn bị làm một cú xiếc lộn cuối cùng và cũng là phi thường nhất sau khi rao trên báo rằng cần đổi sáu căn phòng ở các quận khác nhau ở Moskva lấy một căn hộ sáu buồng ở khu Luỹ Ðất, thì quá trình hoạt động của anh ta, do những nguyên nhân không phụ thuộc vào anh ta, bị chấm dứt. Có thể giờ đây anh ta vẫn đang có một căn buồng nào đó, nhưng dám đoan chắc với bà chị là không ở Moskva. Thế đấy, tay xiếc có nghệ không, thế mà bà chị lại bàn luận về chiều đo thứ năm!»

Mặc dù không phải nàng, mà chính Koroviev bàn luận về chiều đo thứ năm, Margarita vẫn phá ra cười vui vẻ sau khi nghe câu chuyện về những bước thăng trầm của tay xiếc nhà cửa. Còn Koroviev vẫn tiếp tục:

«Thôi, ta nói về công việc, ta nói về công việc nhé, chị Margarita Nikolaevna. Bà chị là một người khá thông minh, và tất nhiên bà chị đã đoán ra ông chủ của chúng tôi đây là ai.»
Trái tim của Margarita đập thót lên, và nàng gật đầu.

«Thế đấy, thế đấy, - Koroviev nói, - chúng tôi là kẻ thù của tất cả những điều lấp lửng và bí ẩn. Hàng năm messir của chúng tôi tổ chức một đêm vũ hội, Ngài gọi đó là vũ hội Ðêm Rằm Mùa Xuân, hay là vũ hội Trăm Vua. Bao nhiêu là người! - Nói đến đây Koroviev đưa tay ôm lấy má như thể anh ta bỗng bị đau răng. - Nhưng mà thôi, tôi hy vọng rằng bà chị sẽ chính mình chứng kiến điều đó. Vậy là messir chúng tôi độc thân, như, tất nhiên, bà chị cũng hiểu đấy. Cần phải có bà chủ, - Koroviev dang hai tay ra, - bà chị hiểu không, thiếu bà chủ thì...»
Margarita nghe Koroviev nói, cố không thốt lên một lời nào, nàng cảm thấy lạnh buốt khoang lồng ngực phía dưới trái tim, niềm hy vọng được gặp hạnh phúc làm đầu óc nàng quay cuồng.

«Ðã thành truyền thống, - Koroviev nói tiếp, - bà chủ của đêm vũ hội nhất thiết phải có tên là Margarita, đó là một điểm; điểm thứ hai, nhất thiết phải là người địa phương. Còn chúng tôi, như bà chị thấy đấy, trên đường đi chu du và trong thời điểm này đang ở Moskva. Chúng tôi đã tìm được một trăm hai mươi mốt Margarita ở Moskva, và, bà chị có tin không, - nói đến đây Koroviev thất vọng vỗ vào đùi mình, - chẳng được một người nào thích hợp cả. Và cuối cùng, số phận may mắn...»

Koroviev cười khẩy đầy ngụ ý, nghiêng người, và trái tim Margarita lại nghe lạnh buốt.

«Nói tóm lại! - Koroviev hét to. - Nói thật ngắn gọn: bà chị có đồng ý nhận về mình cái trách nhiệm đó không?»

«Tôi đồng ý», - Margarita cứng cỏi đáp.

«Tất nhiên! - Koroviev nói và nhắc cây đèn lên. - Mời đi theo tôi.»
Họ đi giữa những dãy cột tròn và cuối cùng bước vào một gian phòng khác, ở đó không hiểu sao lại sực nức mùi chanh, có những tiếng động sột soạt và một vật gì đó chạm lên đầu Margarita. Nàng rùng mình.

«Bà chị đừng sợ, - Koroviev khoác lấy tay Margarita, trấn an nàng một cách ngọt ngào, - đấy chỉ là những trò ranh mãnh khi chuẩn bị vũ hội của Beghemot mà thôi. Và nói chung, tôi xin phép được khuyên bà chị, Margarita Nikolaevna ạ, đừng bao giờ sợ một cái gì hết. Ðiều đó là vô nghĩa. Vũ hội sẽ rất sang trọng, tôi không giấu bà chị điều đó. Chúng ta sẽ được trông thấy những nhân vật mà vào thời của mình có những quyền lực cực kỳ to lớn. Nhưng thực ra, mỗi khi nghĩ rằng những khả năng của họ nhỏ nhoi biết bao nhiêu so với khả năng của người mà tôi hân hạnh được đi theo hầu hạ, là tôi lại thấy họ trở nên nực cười, thậm chí tôi còn muốn nói, trở nên thảm hại. Và cũng xin nói thêm - chính bà chị cũng thuộc huyết thống hoàng tộc đấy.»

«Tại sao lại huyết thống hoàng tộc?» - Margarita áp sát người vào Koroviev, sợ hãi thì thào.

«Ôi, thưa hoàng hậu, - Koroviev liến thoắng một cách suồng sã, - vấn đề huyết thống là vấn đề phức tạp bậc nhất trên đời! Và nếu như hỏi một số bà cụ tổ, đặc biệt các cụ nổi tiếng là những người nhẫn nhục, thì sẽ phát hiện ra được nhiều điều bí ẩn cực kỳ lạ lùng, thưa bà chị Margarita Nikolaevna kính mến ạ. Tôi sẽ không phạm sai lầm chút nào nếu như trong khi nói về điều này tôi lại nhắc đến một cỗ bài bị xáo trộn một cách quái dị. Có những sự vật mà ở đó những ngăn cách đẳng cấp, thậm chí cả những biên giới giữa các quốc gia cũng hoàn toàn không có hiệu lực chút nào. Tôi lấy thí dụ: một trong những hoàng hậu nước Pháp sống vào thế kỷ mười sáu chắc hẳn sẽ vô cùng kinh ngạc nếu như có ai đó nói với bà ta rằng sau rất nhiều năm, tôi sẽ khoác tay một cô huyền tôn nữ [1] xinh đẹp tuyệt vời của bà ta đi dạo qua các gian phòng vũ hội ở Moskva. Nhưng chúng ta đã đến nơi rồi.»

Nói đoạn, Koroviev thổi lên cây đèn, nó lập tức biến mất khỏi tay anh ta, và Margarita trông thấy trước mặt mình một dải sáng nằm trên sàn hắt ra từ phía dưới một cánh cửa nào đó. Koroviev gõ khẽ vào cánh cửa. Lúc này Margarita hồi hộp đến nỗi hai hàm răng nàng đánh vào nhau cầm cập và một cảm giác lạnh buốt chạy dọc suốt sống lưng nàng. Cánh cửa mở ra. Căn phòng rất nhỏ. Margarita trông thấy một chiếc giường với những tấm vải trải giường cáu bẩn, nhàu nát và một chiếc gối. Phía trước giường là chiếc bàn gỗ sồi chân chạm trổ, trên bàn đặt một giá nến với các ổ cắm hình chân chim giương vuốt. Bảy ngọn nến dày cháy sáng trên bảy chân chim bằng vàng. Ngoài ra, trên bàn còn có bàn cờ vua lớn với những quân cờ được chạm gọt khéo léo khác thường. Một chiếc ghế băng thấp đặt trên tấm vải thảm nhỏ đã sờn. Lại còn thêm một chiếc bàn khác với một cốc gì đó bằng vàng và một giá nến khác có hình các đầu rắn vươn ra làm ổ cắm. Trong phòng bốc mùi lưu huỳnh và nhựa cây, bóng của những ngọn nến cháy hắt xuống giao nhau trên sàn nhà.

Giữa nhiều người có mặt trong phòng, Margarita lập tức nhận ra Azazello, giờ đã diện một bộ lễ phục đuôi tôm, đang đứng cạnh thành giường. Sau khi thay quần áo, Azazello không còn giống cái tên kẻ cướp xuất hiện trước mặt Margarita ở vườn Aleksandrovski nữa, và anh ta cúi chào Margarita cực kỳ lịch thiệp.

Một nàng phù thủy khỏa thân, chính là Ghella, người đã làm cho ông chủ nhiệm nhà ăn đáng kính ở nhà hát Tạp Kỹ phải bối rối, than ôi, cũng chính là người, thật may mắn, đã bị tiếng gà trống trong cái đêm diễn khét tiếng nọ làm cho hoảng sợ, giờ đang ngồi trên tấm thảm trải sàn cạnh giường và quấy một chảo gì đó khói lưu huỳnh bốc lên nghi ngút.

Ngoài những người kể trên, trong phòng còn có một con mèo đen cực lớn ngồi trên chiếc ghế đẩu cao cạnh bàn cờ vua, tay phải cầm quân mã.

Ghella đứng dậy nghiêng mình chào Margarita. Con mèo cũng vậy, nó nhảy xuống ghế, khó lê chân sau bên phải, đánh rơi quân mã, và bò theo nó vào dưới gầm giường để nhặt.

Chết lặng vì sợ hãi, Margarita nhìn loáng thoáng thấy tất cả những cảnh đó trong làn ánh sáng chập chờn của những cây nến. Ánh mắt của nàng bị thu hút bởi chiếc giường, ngồi trên đó là cái con người mà cách đây không lâu trong công viên Hồ Pat'riarsi vừa được nghe nhà thơ Ivan tội nghiệp thuyết phục rằng quỷ sứ không tồn tại. Chính cái kẻ không tồn tại đó hiện đang ngồi trên giường. Một đôi mắt nhìn xoáy vào mặt Margarita. Con mắt phải với tia lửa vàng trong đáy khoan thấu vào tận đáy tâm hồn của bất cứ một người nào, còn con mắt trái trống rỗng và đen ngòm, giống lỗ trôn kim hẹp, như lối dẫn vào lòng giếng không đáy của mọi bóng đen và đêm tối. Khuôn mặt của Voland bị méo lệch sang một bên, khóe miệng bên phải trễ xuống dưới, những đường nhăn sâu chạy song song với cặp lông mày nhọn hằn rõ trên khoảng trán hói cao. Da mặt Voland như bị bắt nắng cháy sém vĩnh viễn.

Voland nằm dang rộng hai tay trên giường, người chỉ mặc một chiếc áo ngủ dài cáu bẩn và đã mạng ở vai trái. Một chân trần ông ta co lại dưới mình, chân kia duỗi ra trên chiếc ghế băng. Chính Ghella đang ngồi xoa bóp đầu gối của chiếc chân đen đúa này bằng một thứ thuốc cao bốc khói.

Margarita còn nhìn thấy trên bộ ngực không lông lá mở phanh của Voland một con bọ dừa được tạc rất khéo bằng đá đen treo trên sợi dây chuyền vàng với những hàng chữ khắc trên lưng [2] . Trên giường bên cạnh Voland còn có một quả địa cầu kỳ lạ dường như sống động thật sự và được mặt trời chiếu sáng một bên, nó đứng trên một chân trụ nặng.

Im lặng kéo dài mấy giây. “Ông ta nghiên cứu mình”, - Margarita nghĩ thầm và cố hết sức kìm lại cơn run nơi đầu gối.

Cuối cùng Voland mỉm cười, con mắt phải lấp lánh tia lửa vàng dường như cháy bừng lên, và ông ta cất tiếng:

«Xin chào mừng hoàng hậu, và xin bỏ quá cho bộ dạng trong nhà luộm thuộm của tôi.»
Giọng của Voland trầm thấp đến nỗi một đôi chỗ âm phát ra bị rè đi.

Voland cầm từ giường lên một thanh kiếm dài, cúi mình xuống dùng nó khua khua dưới gậm giường và nói:

«Ra đi! Ván cờ bị xóa bỏ. Khách đã đến.»
«Không thể thế được», - Koroviev rít lên vẻ lo lắng như người nhắc vở bên tai Margarita.

«Không thể thế được...» - Margarita cất tiếng lặp lại.

“Thưa messir...” - Koroviev thở vào tai.

Không thể thế được, thưa messir, - sau khi trấn tĩnh lại, Margarita đáp khẽ nhưng rõ ràng. Rồi nàng mỉm cười, nói tiếp: - Xin ngài đừng xóa bỏ ván cờ. Tôi cho rằng nếu các tạp chí cờ được phép đăng nó lên, chắc họ sẵn sàng trả không ít tiền đâu ạ.”

Azazello thốt lên khe khẽ và đồng tình, còn Voland sau khi chăm chú nhìn Margarita, nói như tự nhận xét với mình:

“Phải, Koroviev nói đúng! Cỗ bài xáo trộn thật quái dị! Huyết thống!”

Ông ta giơ tay vẫy Margarita lại gần. Nàng bước đến, không cảm thấy sàn nhà dưới đôi bàn chân trần. Voland đặt bàn tay nặng như đá đồng thời nóng như lửa lên vai Margarita, kéo mạnh nàng về phía mình và đặt nàng ngồi xuống giường sát bên cạnh.

“Thôi được, nếu như nàng lịch duyệt tuyệt vời như vậy, - mà ta cũng không chờ đợi một cái gì khác, - thì chúng ta cứ việc tự nhiên. - Rồi ông ta lại cúi xuống bên mép giường, quát: - Cái trò hề dưới giường này sẽ kéo dài lâu không đấy? Chui ra ngay, cái đồ hề bất trị!”

“Tôi không thể tìm thấy quân mã, - con mèo từ dưới gầm giường đáp lại bằng giọng giả dối và nghèn nghẹn. - Nó phi đi đâu mất, và thay vào đó là một con nhái.”

“Ngươi có tưởng tượng ra là đang đứng ở ngoài bãi chợ không đấy? - Voland làm ra bộ tức giận, hỏi. - Dưới giường không có ếch nhái nào hết cả! Hãy để những trò ảo thuật rẻ tiền ấy cho nhà hát Tạp Kỹ. Nếu như nhà ngươi không ra ngay bây giờ, chúng ta sẽ coi như nhà ngươi đã chịu đầu hàng, đồ đào ngũ đáng nguyền rủa ạ!”

“Không thể thế được, thưa messir!” - con mèo gào to và ngay tức khắc chui từ gậm giường ra, quân mã cầm trong một chi trước.

“Xin giới thiệu với... - Voland bắt đầu nói, nhưng lại tự cắt lời mình: - Không, ta không thể nhìn cái thằng hề rởm này được. Các người thử trông xem, hắn đã biến mình thành cái gì ở dưới giường kia.”

Trong khi đó, con mèo đứng trên hai chi sau, người lấm đầy bụi, khẽ nghiêng mình chào Margarita. Bây giờ trên cổ con mèo là một chiếc cà vạt thắt nơ trắng, còn trước ngực áo đeo lủng lẳng cặp ống nhòm phụ nữ khảm ngọc trai. Ngoài ra, bộ ria của nó được mạ vàng.

“Hừm, cái gì thế này! - Voland thốt lên. - Nhà ngươi mạ vàng ria để làm gì? Và nhà ngươi cần cà vạt để làm gì trong khi lại không mặc quần dài?”

“Mèo không mặc quần dài, thưa messir, - con mèo đáp với vẻ tự trọng cao độ. - Hay là ngài sẽ ra lệnh cho tôi đi hia? Mèo đi hia chỉ có trong các câu chuyện cổ tích thôi, thưa messir. Nhưng ngài đã bao giờ thấy ai đi dự dạ hội mà không có cà vạt chưa ạ? Tôi không muốn rơi vào tình trạng lố bịch và mạo hiểm bị tống cổ ra khỏi cửa! Mỗi một người đều tự trang điểm cho mình những gì có thể. Và xin ngài hiểu rằng điều vừa nói trên cũng ngụ ý cả chiếc ống nhòm nữa, thưa messir!”

“Còn ria?...”

“Tôi không hiểu, - con mèo bác lại một cách khô khan. - Tại sao hôm nay khi cạo mặt, Azazello và Koroviev có thể thoa phấn trắng, mà nó thì có gì tốt hơn bột vàng? Tôi đã thoa phấn lên ria, chỉ có thế thôi! Nếu tôi đem cạo nó đi, thì lại là chuyện khác. Mèo không ria mới thực sự vô duyên, điều đó thì tôi xin ngàn lần công nhận. Còn nói chung, - đến đây, giọng con mèo run lên đầy tự ái, - tôi thấy rằng người ta đang cố tình xoi mói tôi, và tôi thấy trước mắt tôi đang có một vấn đề quan trọng: có mặt hay không có mặt tại vũ hội? Thưa messir, ngài sẽ nói với tôi như thế nào về điều đó?”

Và con mèo giận dỗi phồng má lên đến nỗi có cảm tưởng như chỉ thiếu chút nữa thì nó nổ bụp mất.

“A, đồ láu tôm láu cá, - Voland lắc đầu nói, - cứ mỗi lần cờ của hắn lâm vào thế bí là hắn lại múa mép đánh trống lảng hệt như một tên bịp bợm hạng bét ngoài chợ. Hãy ngồi xuống ngay tức khắc và chấm dứt cái mớ ngôn từ nhảm nhí rối rắm ấy đi.”

“Tôi ngồi xuống đây, - con mèo đáp và ngồi xuống ghế. - Nhưng tôi phản đối cái nhận xét cuối cùng ngài vừa đưa ra. Những câu nói của tôi hoàn toàn không phải là mớ nhảm nhí rối rắm, như ngài vừa diễn đạt trước mặt bà khách quý đây, mà là một dãy những tam đoạn luận được sắp đặt gói ghém chặt chẽ mà chắc sẽ được những tay sành sỏi trong vấn đề này như Sectut Empiricut [3] , Marxianut Kapella [4] , mà biết đâu thậm chí cả Aristote [5] đánh giá cao.”

“Chiếu tướng”, - Voland nói.

“Xin mời, xin mời”, - con mèo đáp và giương ống nhòm nhìn vào bàn cờ.

“Vậy là, - Voland nói với Margarita, - tôi xin giới thiệu với nàng đoàn tùy tùng của tôi. Cái tay hề này là con mèo Beghemot. Với Azazello và Koroviev nàng đã quen biết rồi. Còn đây là cô hầu Ghella. Tháo vát, sáng dạ, và không có việc gì mà cô ta lại không làm được.”

Người đẹp Ghella mỉm cười, hướng đôi mắt xanh lè về phía Margarita, tay vẫn không ngừng vốc nước thuốc đắp lên đầu gối của Voland.

“Thế đấy, chỉ có chừng ấy thôi, - Voland kết thúc và nhăn mặt lại khi Ghella ấn quá mạnh lên đầu gối ông ta. - Cái tập thể này, như nàng thấy đấy, không lớn lắm, pha tạp và đơn giản.” - Ông ta im lặng và bắt đầu xoay trước mặt mình quả địa cầu làm rất khéo, đến mức các đại dương xanh biếc như sóng sánh lên, còn mũ băng trên địa cực như bằng băng và tuyết thật sự.

Trên mặt bàn cờ trong lúc đó đang diễn ra một tình trạng hỗn loạn. Quân vua mặc áo bào trắng hoàn toàn hốt hoảng đứng giẫm chân trên ô cờ, tuyệt vọng giơ hai tay lên trời. Ba quân tốt - lính đánh thuê cầm giáo ngơ ngác nhìn quân sĩ quan [6] đang vung gươm chỉ về phía trước, nơi trên hai ô cờ đen trắng đứng liền nhau thấp thoáng hiện lên đôi kỵ sĩ đen của Voland cưỡi cặp ngựa nóng rực đang dùng chân đào các ô cờ.

Margarita đặc biệt tò mò và kinh ngạc khi thấy các quân cờ đều sống thật sự.

Con mèo nhấc ống nhòm ra khỏi mắt, khẽ ẩy nhẹ vào lưng quân vua của mình. Trong cơn tuyệt vọng, quân vua giơ hai tay ôm lấy mặt.

“Tình hình tồi tệ lắm, Beghemot thân mến ạ”, - Koroviev khẽ nói bằng giọng cay độc.

“Tình hình khá nghiêm trọng, nhưng hoàn toàn không phải là tuyệt vọng, - Beghemot đáp. - Hơn nữa, tôi tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng. Chỉ cần phân tích tình huống cho kĩ lưỡng.”

Và con mèo bắt đầu phân tích tình huống một cách khá kì quặc, nghĩa là bằng cách nhăn mặt và làm các điệu bộ, nháy mắt với quân vua của mình.

“Không tác dụng gì đâu”, - Koroviev nhận xét.

“A! - Beghemot kêu to, - bầy vẹt bay đi mất hết rồi, đúng như tôi đã đoán trước!”

Quả nhiên, ở một nơi nào đó vẳng lại vô số tiếng cánh chim vỗ. Koroviev và Azazello chạy vội ra ngoài.

“Hừ, quỷ tha ma bắt nhà ngươi cùng những trò hề đêm vũ hội của nhà ngươi đi!” - Voland lẩm bẩm, mắt không rời khỏi quả địa cầu của mình.

Koroviev và Azazello vừa chạy khuất, những cái nháy mắt của Beghemot càng trở nên nhanh, nhiều hơn. Quân vua trắng cuối cùng cũng đã đoán ra là người ta muốn gì ở nó, liền cởi áo bào ném xuống ô và chạy khỏi bàn cờ. Quân sĩ quan nhặt áo bào bị bỏ lại, khoác lên vai và đứng vào chỗ của quân vua. Koroviev và Azazello quay lại.

“Lại nói láo như mọi lần”, - Azazello càu nhàu, lừ mắt nhìn về phía Beghemot.

“Tôi nghe nhầm”, - con mèo đáp.

“Thế nào, cái trò này có kéo dài lâu không đấy? - Voland hỏi. - Chiếu tướng.”

“Hình như tôi nghe nhầm, có phải không ạ, thưa messir, - con mèo đáp. - Không có chiếu tướng và không thể có được.”

«Ta nhắc lại, chiếu tướng.»

«Thưa messir, - con mèo đáp lại bằng giọng giả đò lo lắng, - ngài đã quá mệt mỏi rồi đấy. Không có chiếu tướng!»

«Quân vua của nhà ngươi ở ô g-2», - không nhìn lên bàn cờ, Voland nói.

«Thưa ngài, tôi kinh hoàng quá, - con mèo rít lên, tỏ vẻ kinh hoàng trên mõm của mình. - Trong ô ấy không có quân vua.»

«Cái gì thế?» - Voland ngơ ngác hỏi và đưa mắt nhìn bàn cờ, nơi quân sĩ quan đứng trên ô quân vua đang quay đi lấy tay che mặt.

«A, đồ xỏ lá», - Voland trầm ngâm nói.

«Thưa messir! Tôi lại phải nhờ vả tới phép lôgich, - ép hai chi trước lên ngực, con mèo nói. - Nếu như đối thủ tuyên bố chiếu tướng, mà trong lúc đó quân vua không còn bóng dáng trên mặt bàn cờ nữa, thì nước chiếu tướng coi như không có giá trị.»

«Nhà ngươi có chịu đầu hàng hay không?» - Voland quát lên bằng giọng khủng khiếp.

«Cho phép tôi được nghĩ đã, - con mèo hiền lành trả lời, đặt hai khuỷu chân trước lên bàn, giúi cặp tai vào hai bàn chân và bắt đầu suy nghĩ. Nó suy nghĩ khá lâu rồi cuối cùng nói: - Tôi xin đầu hàng.»

«Giết chết cái con vật bướng bỉnh», - Azazello thì thầm.

«Vâng, xin đầu hàng, - con mèo nói. - Nhưng tôi đầu hàng chỉ là vì không thể nào chơi được trong cái bầu không khí bị những kẻ ghen tỵ đầu độc!» - Nó đứng dậy, và những quân cờ tự chui vào hộp.

«Ghella, đến giờ rồi, - Voland nói và Ghella biến mất khỏi phòng. - Chân thì đang đau, mà lại còn cái vũ hội này nữa», - Voland nói tiếp.

«Xin ngài cho phép tôi», - Margarita khẽ đề nghị.

Voland nhìn nàng chằm chằm rồi dịch đầu gối của mình lại gần nàng.

chất lỏng nóng như nham thạch đốt bỏng tay, nhưng Margarita không nhăn mặt, cố gắng không gây đau đớn xát nó lên đầu gối Voland.

«Bọn người thân cận cứ bảo rằng đây là chứng thấp khớp [7] , - Voland nói, không rời mắt khỏi mặt Margarita. - Nhưng ta rất nghi ngờ rằng vết đau trong đầu gối là kỷ niệm của một nàng phù thủy mê hồn mà ta quen thân gần gũi vào năm một nghìn năm trăm bảy mươi mốt trên núi Broken [8] , ở Bục Quỷ.»

«Ôi, có thể như thế được sao!» - Margarita nói.

«Vớ vẩn thôi mà! Sau chừng ba trăm năm sẽ qua hết. Người ta bày cho ta vô số thứ thuốc, nhưng ta theo thói quen cổ xưa ưa dùng thuốc của bà nội [9] . Bà nội ta, một bà già khủng khiếp, đã để lại gia truyền những thứ thuốc cỏ thật tuyệt diệu. Mà này, nàng có gì đau đớn không đấy? Có thể, nàng bị một nỗi buồn nào đó đầu độc tâm hồn, một nỗi sầu não nào chăng?»

«Không, thưa messir, không có gì đâu ạ, - nàng Margarita thông minh đáp. - Còn bây giờ, khi tôi ở chỗ ngài, tôi cảm thấy mình hoàn toàn thoải mái.»

«Huyết thống là một điều thật vĩ đại, - Voland vui vẻ nói không hiểu với dụng ý gì, rồi tiếp thêm: - Ta thấy rằng nàng quan tâm tới quả địa cầu của ta.»

«Ồ vâng, tôi chưa bao giờ trông thấy một vật như vậy.»

«Một vật rất tuyệt. Thú thật, ta không thích nghe tin tức thời sự qua đài. Ðọc trên đài bao giờ cũng là những cô gái, họ nói không rõ ràng tên các địa phương. Ngoài ra, chừng một phần ba số họ lại hơi nói ngọng, dường như người ta cố ý chọn những người như vậy hay sao ấy. Quả địa cầu của ta tiện lợi hơn nhiều; hơn nữa, ta muốn biết các sự kiện xảy ra một cách chính xác. Chẳng hạn, nàng có thấy cái mẩu đất con con cạnh bờ đại dương này không? Xem đây, nó đang bốc cháy. Ở đó chiến tranh đã bắt đầu nổ ra. Nếu như nhìn gần vào, nàng sẽ được thấy các chi tiết.»

Margarita cúi xuống bên quả địa cầu và trông thấy mảnh ô vuông nhỏ trên đó nở rộng ra, hiện lên nhiều màu sắc và dường như biến thành một tấm bản đồ nổi. Rồi nàng thấy một dải sông dài, một khu dân cư cạnh bờ sông. Ngôi nhà lúc đầu bé bằng hạt đậu, lớn dần lên như hộp diêm. Bỗng bất ngờ và không nghe tiếng động, cả chiếc mái của ngôi nhà đó bắn tung lên cao, cùng với một cột khói đen, còn những bức tường đổ ụp xuống, và cả ngôi nhà hai tầng chẳng còn lại tí gì ngoài một đống vỡ nát bốc khói đen. Ðưa mắt nhìn gần hơn, Margarita trông thấy hình một người phụ nữ nhỏ bé nằm trên mặt đất, cạnh đó là đứa bé trai chân tay duỗi sóng soài trong vũng máu.

«Thế là hết, - Voland mỉm cười, nói, - nó còn chưa kịp phạm tội. Công việc của Abadonna [10] quả là hoàn hảo.»

«Tôi thật không muốn ở vào phe chống lại cái tay Abadonna này, - Margarita nói. - Anh ta ở phe nào?»

«Càng nói chuyện với nàng, - Voland lịch sự đáp lời, - ta càng thấy rằng nàng rất thông minh. Ta sẽ nói cho nàng yên tâm. Anh ta là một kẻ vô tư hiếm có và thông cảm như nhau đối với cả hai bên đối địch. Do vậy mà kết quả với cả hai bên cũng thường là như nhau. Abadonna! - Voland khẽ gọi, và ngay tức khắc từ trong bức tường hiện ra một người rất gầy đeo kính đen. Cặp kính đen này không hiểu sao lại gây cho Margarita một ấn tượng rất mạnh, khiến nàng, sau khi khẽ hét lên một tiếng, úp mặt vào chân Voland. - Mà thôi đi, - Voland quát, - những con người hiện đại sao mà dễ kích động đến thế. - Voland vung tay phát vào lưng Margarita, khiến cho một tiếng ngân chạy dọc khắp người nàng. - Nàng cũng thấy đấy, anh ta đeo kính mà. Hơn nữa chưa hề có trường hợp nào, và cũng sẽ không bao giờ có, Abadonna lại xuất hiện không đúng lúc trước mắt một người nào đó. Và cuối cùng, là còn có ta ở đây kia mà. Nàng là khách của ta! Ta chỉ muốn cho nàng xem thôi.»
Abadonna đứng bất động.

«Thế có thể để anh ta bỏ kính ra một giây được không?» - Margarita hỏi, dịch sát vào gần Voland, người run lên, nhưng bây giờ là vì tò mò.

«Ðiều đó thì không thể được, - Voland nghiêm giọng nói và khoát tay cho Abadonna, anh ta vụt biến mất. - Azazello, nhà ngươi muốn nói gì thế?»

«Thưa messir, - Azazello đáp. - Cho phép tôi được nói. Vừa rồi có hai người lạ đến: một cô gái xinh đẹp cứ khóc thút thít và van xin để cô ta lại với cô chủ, và ngoài ra cùng với cô ta, tôi xin lỗi, còn có một con lợn đực thiến.»

«Những người đẹp xử sự có vẻ lạ lùng thật đấy», - Voland nhận xét.

«Ðó là Natasa, Natasa», - Margarita kêu to.

«Thôi được, để cô ta ở lại với chủ. Còn con lợn đực thiến thì đưa đến chỗ các đầu bếp. »

«Chọc tiết ạ? - Margarita hốt hoảng thốt lên. - Thưa messir, xin ngài rủ lòng thương đó là Nikolai Ivanovich, người ở tầng dưới cùng nhà với tôi. Ở đây là do một sự nhầm lẫn. Natasa, thưa ngài, đã thoa kem lên...»

«Xin lỗi, - Voland nói, - ai chọc tiết hắn để làm quỷ quái gì? Cứ để cho hắn ngồi ở chỗ các đầu bếp, chỉ thế thôi! Ta không thể, chắc nàng cũng thấy đấy, cho hắn vào phòng vũ hội được!»

«Quả thế... - Azazello phụ họa và báo cáo: - Thưa messir, sắp đến nửa đêm rồi ạ.»

«À, tốt lắm. - Voland quay sang nói với Margarita. - Vậy thì ta mời nàng! Và cảm ơn nàng trước. Ðừng mất bình tĩnh và đừng sợ gì hết. Ðừng có uống gì cả, ngoài nước ra, không thì nàng sẽ mệt và khó chịu đấy. Ðến giờ rồi!»

Margarita rời mặt thảm đứng dậy, và ngay lúc đó Koroviev xuất hiện ở cửa.

Nguồn: Nguyên tác tiếng Nga MACTEP И МАРГАРИТА. In lần đầu tiên ở tạp chí Moskva, số 11 năm 1966 và số 1 năm 1967 nhưng bị cắt bỏ nhiều. Năm 1973 được in đầy đủ theo bản thảo lưu giữ ở Thư viện Quốc gia mang tên V. I. Lenin. Bản dịch tiếng Việt của Ðoàn Tử Huyến Mikhail Bulgakov, Nghệ nhân và Margarita, Nhà xuất bản Cầu Vồng và Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới hợp tác xuất bản, Moskva 1989, với lời giới thiệu của Giáo sư Viện sĩ Thông tấn P. Nikolaev, thực hiện theo Mikhail Bulgakov, Các tiểu thuyết Bạch vệ, tiểu thuyết sân khấu, Nghệ nhân và Margarita, Nhà Xuất bản Văn học, Moskva, 1973. Lần in thứ hai trong Mikhail Bulgakov. Tuyển tập văn xuôi, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1998, bản dịch đã được dịch giả xem lại đối chiếu với nguyên bản tiếng Nga in trong M. Bulgakov, Tuyển tập tác phẩm năm tập, tập 5, nhà xuất bản Văn học, Moskva, 1990. Phần chú giải được soạn dựa nhiều vào các chú giải của G. Lesskis in trong tập nói trên. Bản in lần này theo Nghệ Nhân và Margarita trong tập M. Bulgakov, Tuyển tập văn xuôi, Nxb Văn học, 1996, có sửa chữa một số chỗ.

[1]Huyền tôn nữ: cháu năm đời.
[2]Con bọ dừa... với hàng chữ được khắc trên lưng: biểu tượng đa thần giáo ở Ai Cập cổ đại, tượng trưng cho cái ác có thể sinh ra cái Thiện (xin so sánh với đề từ của cuốn tiểu thuyết này).
[3]Sectut Empiricut (cuối thế kỷ II - đầu thế kỷ III): nhà triết học và nhà khoa học cổ Hy Lạp.
[4]Marxianut Kapella (nửa đầu thế kỷ V): nhà văn La Mã.
[5]Aristote (384-322 trước Công nguyên): nhà triết học và khoa học cổ Hy Lạp.
[6]Trong cờ vua (cờ quốc tế), quân tượng còn được gọi là quân sĩ quan.
[7]Thực ra theo quan niệm truyền thống, chứng đau ở đầu gối của Voland là do bị ngã ở thiên đường xuống.
[8]Núi Broken: một đỉnh núi cao ở Hars (Đức). Cái tên Broken gắn với hàng loạt truyền thuyết mê tín (quỷ sứ, phù thủy, đêm Vanpurghie v.v.).
[9]Bà nội: một cách chơi chữ của Bulgacov, dựa theo lời rủa quen thuộc trong tiếng Nga “đồ bà nội của quỷ”. Nói chung từ “quỷ”, “ma quỷ” được sử dụng khá nhiều trong tiểu thuyết với dụng ý hài hước, diễu cợt.
[10]Abadonna: Thần Chết. Tiếng Do Thái Avadon có nghĩa là ngừng tồn tại.

Mikhail Bulgakov Nhà văn Nga, sinh ngày 15.5.1891 tại Kiev, mất ngày 10.3.1940 tại Maxcơva

Đoàn Tử Huyến sinh năm 1952 tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nguyên là Giảng viên văn học Nga tại Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Biên tập viên NXB Lao động, Phó Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội nhà văn Việt Nam. Hiện là Chủ tịch Hội đồng khoa học của Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây.

Đã dịch trên 30 tác phẩm văn học từ tiếng Nga, trong đó có tập truyện vừa Những quả trứng định mệnh, kịch A. Puskin, truyện vừa Trái tim chó, tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita của M. Bulgakov, truyện vừa Đêm trắng của F. Doxtoevski, tiểu thuyết Đấng Cứu Thế của Otero Silva, tiểu thuyết Bố già của Mario Puzo (dịch cùng Trịnh Huy Ninh) v.v.

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài