talawas chủ nhật

 
Tác phẩm dịch :: 22.10.2006
Mikhail BulgakovNghệ nhân và Margarita

Phần 1 Phần 2 Phần phụ lục

Mikhail Bulgakow
Mikhail Bulgakow (1891-1940)

“Trong di sản văn học nhân loại không ít những tác phẩm để đến được bạn đọc phải trải qua bao gian truân, tốn bao công sức, nhưng một số phận như Nghệ nhân và Margarita quả thật hiếm có. Ðược viết trong mười hai năm, bắt đầu từ năm 1928 với cái tên dự định là Tiểu thuyết về quỷ sứ, bị xé, bị đốt, viết đi viết lại bảy lần; cho đến năm 1940 nằm trên giường bệnh, mắt lòa, Bulgakov vẫn đọc cho vợ sửa chữa; sau khi nhà văn qua đời, người vợ tận tụy là Elena Sergheevna Bulgakova cùng bạn bè và những người hâm mộ ông sau hơn một phần tư thế kỷ chạy vạy mới công bố được tác phẩm bị cắt xén "một cách man rợ" trên tờ tạp chí Moskva. Nhưng ngay ở dạng bị lược bỏ này cuốn tiểu thuyết cũng gây nên chấn động lớn…” (Đoàn Tử Huyến)

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn văn tác phẩm đặc sắc này qua bản dịch từ nguyên bản tiếng Nga của Đoàn Tử Huyến.

talawas chủ nhật

Mikhail Bulgakov

Nghệ nhân và Margarita

Đoàn Tử Huyến

Phần 2

Chương 19: Margarita Chương 20: Hộp kem Azazello Chương 21: Chuyến bay Chương 22: Dưới ánh nến Chương 23: Ðại vũ hội của Chúa quỷ Satan Chương 24: Sự giải thoát cho nghệ nhân Chương 25: Quan tổng trấn đã cố gắng cứu tên Giuda ở thành phố Kiriaph như thế nào? Chương 26: Việc chôn cất Chương 27: Kết cục của căn hộ số 5 Chương 28: Những trò phiêu lưu cuối cùng của Koroviev và Beghemot Chương 29: Số phận của nghệ nhân và Margarita đã được định đoạt Chương 30: Ðã đến lúc! Ðã đến lúc! Chương 31: Trên đồi Vorobiev Chương 32: Sự tha thứ và chốn nương thân muôn đời Phần kết

 

Chương 25:
Quan tổng trấn đã cố gắng cứu tên Giuda ở thành phố Kiriaph như thế nào?



Bóng tối từ Ðịa Trung Hải kéo đến đã che phủ cái thành phố bị quan tổng trấn căm ghét. Ðã biến mất những chiếc cầu treo nối liền Ðền Thờ với tháp Antoni khủng khiếp, khối đen không đáy từ trên trời cao đã hạ xuống và trùm lên những pho tượng thần có cánh trên trường đua ngựa, lên lâu đài Hasmonei với các lỗ châu mai, lên các bãi chợ, lều quán, ngõ nhỏ, ao hồ... Ðã biến mất Iersalaim - thành phố vĩ đại, dường như nó chưa hề từng tồn tại trên thế giới này. Bóng tối đã nuốt chửng tất cả, làm cho tất cả mọi sinh vật sống ở Iersalaim và các vùng phụ cận phải khiếp đảm. Một đám mây đen kỳ quái từ phía biển kéo đến vào lúc cuối ngày mười bốn của tháng Nixan mùa xuân.

Khối mây đen đã trườn cái bụng của mình lên ngọn Núi Trọc, nơi những tên đao phủ đang vội vã đâm chết mấy người bị hành hình, rồi trườn lên ngôi đền ở Iersalaim và làm thành từng dòng khói lớn bò từ ngọn đồi xuống, chảy lấp đầy Hạ Thành. Nó chui vào các cửa sổ và xua đuổi mọi người khỏi những con đường phố cong queo, dồn họ vào nhà. Nó không vội vã trút nước, mà chỉ mới phóng ra những luồng ánh sáng. Hễ lưỡi lửa vừa lóe lên rạch ngang khối mây đen ngòm, thì từ trong bóng tối như địa ngục vọt bắn lên cao cái khối vĩ đại của tòa Ðền Thờ với lớp mái vẩy rồng lấp lánh. Nhưng ánh chớp đã tắt lịm đi trong khoảnh khắc, và ngôi đền lại chìm sâu vào vực đen không đáy. Ðã mấy lần Ðền Thờ vọt lên từ đó rồi lại rơi xuống, và cứ mỗi lần rơi xuống như vậy lại kèm theo tiếng gầm vang rền khủng khiếp của tai họa.

Những ánh lửa nhoáng nhoàng run rẩy khác lôi từ chốn không đáy lên tòa lâu đài Herod Ðại Ðế đứng đối diện với Ðền Thờ trên ngọn đồi phía Tây, và những pho tượng vàng không mắt dữ tợn vươn hai tay trên đầu bay vụt lên bầu trời đen. Nhưng ngọn lửa thiên đình lại biến mất, và một tràng sấm nặng nề giáng xuống hất những tượng thần bằng vàng tụt sâu vào vực tối.

Mưa rào bỗng trút xuống đột ngột, và lúc đó cơn giông biến thành một trận bão giật. Ở đúng nơi lúc gần trưa quan tổng trấn đứng nói chuyện với ngài đại tư tế cạnh chiếc ghế dài bằng đá cẩm thạch trong vườn, một cây trắc bá diệp bị bẻ gẫy ngang chẳng khác gì que sậy phát ra tiếng kêu như tiếng đại bác. Cùng với bụi nước và mưa đá, gió cuốn lên ban công dưới hàng cột tròn những bông hoa hồng bị dứt khỏi cành, những chiếc lá mộc lan, cành cây con và cát sỏi. Cơn bão như muốn nghiền nát khu vườn.

Trong khoảng thời gian đó, chỉ có một người ở dưới hàng cột tròn, và người đó là quan tổng trấn.

Bây giờ ngài không ngồi trong ghế bành, mà nằm trên phản cạnh chiếc bàn thấp nhỏ bày các món ăn và rượu vang đựng trong mấy bình con. Một chiếc phản khác, để không, đặt đối diện ở bên kia bàn. Phía dưới chân ngài sóng sánh một vũng nước đỏ như máu và ngổn ngang những mảnh bình gốm vỡ tan. Người hầu dọn bàn cho quan tổng trấn trước cơn giông không hiểu sao lại tỏ ra hốt hoảng trước ánh mắt của ngài, lo lắng không biết mình có làm cái gì không vừa ý chủ chăng, và quan tổng trấn nổi giận, cầm chiếc bình ném xuống nền đá khảm, quát:

«Tại sao khi đưa nhà ngươi không nhìn vào mặt ta? Hay nhà ngươi ăn cắp cái gì?»

Gương mặt đen của người châu Phi trở nên xám ngoét, trong cặp mắt anh ta hiện ra nỗi kinh hoàng cực độ; tên người hầu run lẩy bẩy và suýt nữa đánh rơi nốt chiếc bình thứ hai, nhưng cơn giận của quan tổng trấn không hiểu sao đã bay biến đi cũng nhanh chóng hệt như khi nó đến. Người nô lệ châu Phi quỳ xuống định nhặt các mảnh vỡ và lau vũng nước, nhưng quan tổng trấn khoát tay ra hiệu, và anh ta chạy đi. Ðến tận giờ vũng rượu vẫn nằm nguyên ở đó.

Bây giờ, khi cơn bão đang gầm rú ngoài trời, người da đen ẩn mình cạnh hốc tường, nơi đặt tượng một người đàn bà khỏa thân đứng nghiêng đầu; anh ta sợ xuất hiện không đúng lúc trước mặt chủ, đồng thời lại sợ bỏ lỡ qua cái thời điểm khi quan tổng trấn có thể gọi anh ta.
Nằm trên phản trong bóng tối nhập nhoạng của cơn giông, quan tổng trấn tự rót rượu vang vào cốc cho mình, uống từng ngụm kéo dài, thỉnh thoảng chạm tay vào đĩa bánh mì, bẻ vụn, nuốt từng mẩu nhỏ, chốc chốc lại hút sò huyết, nhai một mẩu chanh rồi lại nhấp rượu vang.
Nếu không có tiếng réo gào của dòng nước chảy, nếu không có những tràng sấm nổ như chực nghiền nát mọi lâu đài, nếu không có tiếng mưa đá nện sầm sập ngoài bậc đá ban công, thì có thể nghe thấy tiếng quan tổng trấn đang lẩm bẩm nói chuyện với mình về một điều gì đó. Và nếu như ánh lửa nhấp nhoáng run rẩy của những tia chớp trời biến thành một làn ánh sáng kéo dài không tắt, thì người quan sát có thể thấy rằng khuôn mặt của quan tổng trấn, với cặp mắt sưng mọng, bởi những đêm mất ngủ và bởi rượu vang, đang thể hiện một sự sốt ruột; ngài không chỉ nhìn xuống hai bông hồng trắng nằm trong vũng rượu đỏ, mà còn thường xuyên quay đầu về phía vườn đón nhìn những cột bụi nước và cát sỏi; ngài đang chờ, đang rất sốt ruột chờ ai đó.

Thêm một ít thời gian nữa trôi qua, và màn nước trước mặt quan tổng trấn bắt đầu trở nên thưa dần. Dù cơn bão có dữ dội đến mấy, nó cũng đã yếu đi. Những cành cây không còn rít lên răng rắc và rơi gãy nữa. Sấm chớp mỗi lúc một thưa hơn. Bay trên đầu Iersalaim giờ đây không phải là tấm chăn màu tím sẫm viền trắng nữa, mà là một đám mây lẻ loi màu xám bình thường. Cơn giông đã chuyển về hướng Biển Chết.

Bây giờ đã có thể phân biệt được tiếng mưa rơi, tiếng nước chảy theo các ống xối và tràn qua các bậc thềm đá mà theo đó sáng nay quan tổng trấn đã bước xuống để ra quảng trường tuyên bố bản án. Và cuối cùng, tiếng vòi phun nước bị át đi đến tận bây giờ cũng vang lên. Trời hửng sáng. Trong màn mây xám trôi nhanh về hướng Ðông xuất hiện những khoảng trời xanh biếc.

Vừa lúc đó từ phía xa, xuyên qua những âm thanh tí tách của cơn mưa đã gần như tạnh hẳn, vọng đến tai quan tổng trấn tiếng kèn đồng yếu ớt và tiếng rầm rập của mấy trăm vó ngựa. Nghe thấy những tiếng động đó, quan tổng trấn cựa mình, khuôn mặt ngài vụt linh hoạt hẳn lên. Ala kỵ binh đã từ Núi Trọc trở về, theo tiếng bước chân ngựa có thể đoán được là nó đang đi qua chính cái quảng trường sáng nay quan tổng trấn đã công bố bản án.

Cuối cùng, quan tổng trấn đã nghe thấy tiếng bước chân mà ngài ngóng đợi từ lâu, rồi tiếng giày đã lép nhép trên cầu thang dẫn lên khoảng sân thượng của khu vườn ở ngay phía trước ban công. Quan tổng trấn vươn cổ, cặp mắt ngài sáng lên lộ rõ vẻ vui mừng.

Ðầu tiên, giữa hai con sư tử bằng đá cẩm thạch hiện ra một mái đầu đội mũ chụp, rồi sau đó là cả con người mặc áo khoác dính chặt vào thân ướt sũng từ đầu đến chân. Ðó chính là người đã nói chuyện thì thầm với quan tổng trấn trước khi ngài đi ra quảng trường tuyên bố bản án, trong căn phòng che kín của tòa lâu đài, và đó cũng là người ngồi trên chiếc ghế đẩu ba chân, tay nghịch ngọn roi trong thời gian diễn ra cuộc hành hình.
Không để ý tránh các vũng nước, người đội mũ chụp đi cắt ngang mảnh sân thượng của khu vườn, bước lên mặt sàn ban công khảm đá; rồi giơ cao một cánh tay, người đó nói bằng giọng cao dễ nghe:

«Cầu chúc quan tổng trấn bình an và vui vẻ», - người mới đến nói bằng tiếng Latinh.

«Trời! - Pilat thốt lên. - Trên mình ngươi không còn một sợi chỉ nào khô nữa! Cơn bão ra trò đấy chứ? Ngươi hãy đến gặp ta lập tức. Làm ơn thay quần áo ngay đi cho.»

Người mới đến cởi chiếc mũ chụp để lộ mái đầu ướt sũng với những món tóc dính bết vào trán; và nở một nụ cười lễ độ trên khuôn mặt cạo nhẵn của mình, anh ta từ chối việc thay quần áo, nói rằng cơn mưa nhỏ không hề gây cho anh ta một tác hại nào.

«Ta không muốn nghe», - Pilat đáp và vỗ hai tay vào nhau. Bằng hiệu lệnh ấy, ngài gọi những người hầu đang ẩn trốn đâu đó, ra lệnh cho họ săn sóc người mới đến rồi mang thức ăn nóng ra ngay. Ðể hong khô tóc, thay quần áo, giày tất, nói chung để sửa soạn lại mình cho chỉnh tề, người mới đến cần rất ít thời gian; chỉ một chốc sau anh ta xuất hiện trên ban công trong chiếc áo choàng nhà binh đỏ rực, khô ráo, chân đi đôi xăng đan khô, với mái tóc đã được chải mượt.

Vào giờ này, mặt trời đã trở lại cùng Iersalaim. Trước khi lặn xuống Ðịa Trung Hải, nó gửi những tia nắng cuối cùng xuống chia tay với thành phố bị quan tổng trấn căm ghét, nhuộm vàng những bậc thềm đá ban công. Vòi phun nước đã hoàn toàn sống lại, reo hát hết cỡ giọng; mấy con chim bồ câu đậu xuống bãi cát, líu ríu gù, nhảy qua nhảy lại giữa những cành cây gầy, mổ một cái gì đó trên mặt cát ướt. Vũng rượu đổ đã được lau sạch, các mảnh bình vỡ đã dọn nhặt hết; trên bàn, những đĩa thịt bốc khói.

«Tôi sẵn sàng nghe lệnh của ngài, thưa quan tổng trấn», - người khách vừa tới bước đến bên bàn, nói.

«Ngươi sẽ không nghe thấy gì cả nếu như chưa ngồi vào bàn và uống vài cốc rượu vang», - Pilat nhã nhặn đáp và chỉ vào chiếc phản đối diện.

Người khách mới đến nằm xuống, đầy tớ rót vào cốc cho anh ta thứ rượu vang đỏ đặc sánh. Một đầy tớ khác, thận trọng nghiêng mình phía trên vai Pilat, rót đầy cốc của quan tổng trấn. Sau đó ngài khoát tay ra hiệu cho hai tên đầy tớ lui ra. Trong khi người mới đến ăn uống, Pilat vừa nhấp rượu vừa nheo mắt nhìn vị khách của mình. Người đến gặp Pilat trạc trung niên, có bộ mặt tròn được chăm chút rất kỹ lưỡng, với chiếc mũi lớn. Tóc của anh ta không có màu. Bây giờ, khi khô dần, nó có màu sáng. Rất khó đoán được anh ta thuộc dân tộc nào. Ðặc điểm chính của khuôn mặt anh ta có lẽ là cái vẻ hiền lành, nhưng nó bị phá vỡ bởi đôi mắt, hay đúng hơn, không phải đôi mắt, mà là cái cách anh ta nhìn người nói chuyện với mình. Thường thường, anh ta che giấu cặp mắt nhỏ của mình dưới hàng mi nhô ra hơi lạ lùng, dường như bị sưng mọng lên. Lúc ấy, giữa hai khe hở của cặp mắt đó ánh lên một vẻ tinh nghịch hiền lành, và có thể nghĩ rằng người khách của quan tổng trấn thiên về bản tính hài hước. Nhưng thỉnh thoảng, xua biến cái tia hài hước lấp lánh đó ra khỏi hai khe mắt, anh ta mở to cặp mí và bất thần xoáy trừng trừng vào mặt người đối thoại, dường như muốn nhìn rõ ngay một vết nhỏ không nhận thấy nào đó trên tinh mũi của người đứng trước mặt. Ðiều đó chỉ diễn ra trong một thoáng, sau đấy cặp mí lại buông xuống, hai khe mắt lại thu hẹp, và từ đó ánh lên vẻ hiền lành và trí thông minh hài hước.

Người mới đến không từ chối cốc rượu vang thứ hai, với vẻ khoan khoái nuốt vài con sò huyết, thử mấy miếng rau xào và ăn một mẩu thịt con.

Khi đã no, anh ta khen rượu vang:

“Một thứ nho tuyệt vời, thưa quan tổng trấn, nhưng đây không phải là “Phalerno” [1] chứ ạ?”

“Xecuba” ba chục năm đấy”, - quan tổng trấn nhã nhặn đáp.

Khách đặt tay lên ngực trái, từ chối không ăn gì thêm, nói rằng mình đã no. Lúc đó Pilat rót đầy cốc của mình, khách cũng làm theo như vậy. Cả hai người rót một ít rượu vang từ cốc của mình vào đĩa thịt, và quan tổng trấn nâng cốc lên, nói to:

“Vì chúng ta, vì đức Hoàng Ðế, cha của tất cả thần dân La Mã, con người tốt nhất và yêu quý nhất trong số tất cả mọi người!”

Nói xong, họ uống cạn cốc rượu, và những tên đầy tớ người Châu Phi dọn hết các món ăn trên bàn, chỉ để lại hoa quả và mấy bình rượu. Rồi quan tổng trấn ra hiệu cho đầy tớ lui, để lại một mình ngài với khách dưới hàng cột tròn.

“Vậy là, - Pilat cất tiếng hỏi không to lắm, - ngươi có thể nói gì với ta về tình hình ở thành phố này?”

Pilat bất giác đưa mắt nhìn vượt qua dãy hiên của khu vườn, xuống phía dưới, nơi những hàng cột và những mái nhà phẳng đang cháy rực lên những tia nắng cuối cùng.

“Tôi cho rằng, thưa quan tổng trấn, - khách đáp lời, - tình hình ở Iersalaim bây giờ có thể an tâm được.”

“Thế tức là có thể bảo đảm rằng sẽ không còn những vụ lộn xộn nữa?”

“Chỉ có một điều có thể bảo đảm được trên đời này, - người khách âu yếm nhìn quan tổng trấn đáp, - đó là sức mạnh của Hoàng Ðế vĩ đại.”

“Cầu mong các vị thần linh ban cho đức Hoàng Ðế cuộc sống dài lâu, - Pilat lập tức tiếp lời, - và hòa bình ở khắp nơi. - Ngài im lặng một lát rồi nói thêm: - Thế nghĩa là ngươi cho rằng bây giờ có thể rút quân đi được?”

“Tôi cho rằng kogort Tia Chớp có thể rút quân được, - khách đáp, và nói thêm: - Nếu như trước lúc rút đi, nó làm một cuộc diễu hành qua thành phố thì càng tốt.”

“Một ý kiến rất hay, - quan tổng trấn đồng tình. - Ngày kia ta sẽ rút nó đi, tự ta cũng đi luôn, và - xin thề bằng bữa tiệc của mười hai vị thần [2] và bằng tất cả các thành hoàng thổ công, - ta sẵn sàng đánh đổi rất nhiều thứ để làm việc đó ngay hôm nay.”

“Quan tổng trấn không thích Iersalaim ạ?” - người khách thật thà hỏi.

“Xin rủ lòng độ lượng, - quan tổng trấn mỉm cười thốt lên, - trên mặt đất này không còn có chỗ nào bất yên hơn. Ðấy là ta chưa nói về thiên nhiên. Ta lần nào cũng sinh bệnh mỗi khi phải đi đến đây. Nhưng đó chỉ mới là một nửa tai họa. Còn những ngày hội hè này - bọn pháp sư, thầy mo, phù thủy, rồi cả đàn cả lũ những kẻ hành hương... Rặt quân cuồng tín, quân cuồng tín! Chỉ riêng một lão Messia [3] nào đó mà bọn họ bỗng nhiên chờ đợi sẽ đến trong năm nay cũng đã đáng giá bao nhiêu rồi! Phút nào cũng có thể trở thành người chứng kiến những vụ đổ máu khó chịu nhất. Thường xuyên phải xáo trộn quân lính, đọc những thư tố cáo và vu khống, mà trong số đó phải đến một nửa là viết về chính ta! Ngươi chắc cũng đồng ý rằng điều đó thật là ngán ngẩm. Ôi, nếu như không phải vâng mệnh Hoàng Ðế!...”

“Vâng, những ngày lễ hội ở đây quả là vất vả”, - khách đồng ý.

“Ta thật lòng mong cho chúng nhanh chóng kết thúc đi, - Pilat sôi nổi nói tiếp. - Ta sẽ có khả năng cuối cùng được trở lại Kesaria. Ngươi có tin không, cái công trình điên rồ này của Herod, - quan tổng trấn khoát tay dọc theo hướng hàng cột, chứng tỏ rằng mình đang nói về tòa lâu đài, - làm ta phát điên lên mất. Ta không thể ngủ đêm ở đấy được. Thế giới còn chưa biết tới một kiến trúc nào kỳ quái hơn. Mà thôi, ta quay trở lại với công việc. Trước hết, cái tên Var-ravvan không làm ngươi lo lắng chứ?”

Lập tức, người khách ném một cái nhìn đặc biệt của mình lên má quan tổng trấn. Nhưng Pilat vẫn nhìn ra xa bằng ánh mắt buồn chán, mặt cau lại vẻ ghê tởm, ngắm cái phần thành phố nằm phía dưới chân ngài đang tắt lịm dần trong hoàng hôn. Ánh mắt của người khách cũng vụt tắt, đôi hàng mi cụp xuống.

“Tôi cho rằng tên Var-ravvan bây giờ vô hại như một con chiên non, - khách đáp, và những nếp nhăn xuất hiện trên bộ mặt tròn. - Bây giờ nổi loạn đối với hắn ta là bất tiện.”

“Vì quá nổi tiếng?” - Pilat cười khẩy, hỏi.

“Quan tổng trấn bao giờ cũng thật tinh tường!”

“Nhưng để phòng ngừa, - Pilat nói với vẻ mặt lo nghĩ và chĩa một ngón tay thon dài đeo nhẫn gắn ngọc đen lên trời, - cần phải...”

“Ô, quan tổng trấn có thể tin chắc rằng cho đến khi nào tôi còn có mặt ở Giudea, tên Var-ravvan sẽ không thể đi đâu một bước mà không bị theo dõi sát gót.”

“Giờ thì ta yên lòng, cũng như bao giờ cũng yên lòng khi có ngươi ở đây.”

“Quan tổng trấn quá khen!”

“Còn bây giờ, hãy báo cáo cho ta biết về việc hành hình, - quan tổng trấn nói.”

“Quan tổng trấn muốn biết cụ thể về việc gì ạ?”

“Về phía dân chúng có mưu toan nào định phản đối không? Cái đó là chính, tất nhiên...”

“Tuyệt đối không ạ”, - người khách đáp.

“Rất tốt. Chính ngươi đã kiểm tra là chúng chết thật rồi chứ?”

“Quan tổng trấn có thể yên tâm về điều đó.”

“Thế... có cho chúng uống [4] trước khi treo lên cột chứ?”

“Vâng. Nhưng hắn, - nói đến đây người khách nhắm mắt lại, - từ chối không chịu uống.”

«Cụ thể là ai?» - Pilat hỏi.

«Xin ngài thứ lỗi, thưa ighemon! - người khách thốt lên. - Tôi chưa nói tên ra ạ? Ha-Notxri.»

«Quả là điên rồ! - Pilat nói và không hiểu sao nhăn mặt lại. Một thớ gân ở dưới mắt trái của ngài khẽ co giật. - Chịu để mặt trời thiêu chết! Tại sao lại từ chối cái mà pháp luật cho phép? Hắn từ chối như thế nào?»

«Hắn nói rằng, - người khách lại nhắm mắt, đáp, - hắn cảm ơn và không buộc tội đã tước mất cuộc sống của hắn.»

«Buộc tội ai?» - Pilat hỏi bằng giọng âm thầm.

«Ðiều đó hắn không nói, thưa ighemon.»

«Hắn có mưu toan rao thuyết gì trước mặt binh lính không?»

«Không, thưa ighemon, lần này hắn không lắm lời ạ. Cái điều duy nhất hắn nói là trong số các tội lỗi của con người, một trong những tội lỗi lớn nhất hắn cho là sự hèn nhát.»

«Hắn nói câu đó nhằm ý gì?» - người khách bỗng nghe một giọng nói bất ngờ bị vỡ rạn.

«Ðiều đó không thể hiểu được ạ. Nói chung hắn xử sự khá kỳ quặc, mà thật ra cũng như mọi khi thôi.»

«Kỳ quặc ở chỗ nào?»

«Hắn luôn luôn cố nhìn sâu vào mắt khi thì người này, khi thì người khác ở xung quanh và luôn luôn mỉm cười bằng một nụ cười ngơ ngác thế nào ấy.»

«Ngoài ra không còn gì hơn?» - Pilat hỏi bằng giọng khàn khàn.

«Không còn gì hơn nữa ạ.»

Quan tổng trấn gõ mạnh cốc xuống bàn, rót rượu vang ra cho mình. Uống cạn, ngài cất tiếng:

«Sự việc là như sau: tuy chúng ta không thể phát hiện ra - ít ra là vào thời điểm này - những học trò hoặc những kẻ ngưỡng mộ hắn, dù sao vẫn không thể bảo đảm rằng chúng không hề có.»

Người khách cúi đầu chăm chú lắng nghe.

«Và vì vậy, để tránh mọi sự bất trắc có thể xảy ra, - quan tổng trấn nói tiếp, - ta ra lệnh phải ngay lập tức và không gây bất cứ một sự ồn ào nào thu dọn khỏi mặt đất xác ba tên bị tử hình rồi đem chôn chúng một cách bí mật và im lặng, để không một ai được nghe và nói gì về chúng nữa.»

«Tuân lệnh, thưa ighemon, - khách đáp và vừa đứng dậy, vừa nói: - Vì công việc phức tạp và quan trọng, xin phép được đi ngay tức khắc.»

«Không, hãy ngồi xuống đã, - Pilat đưa tay ngăn người khách của mình lại, nói: - Còn hai việc nữa. Việc thứ hai: những công lao to lớn của ngươi trong cái công việc cực kỳ khó khăn trên cương vị người phụ trách công vụ mật dưới quyền quan tổng trấn ở Giudea đã tạo cho ta một cơ hội may mắn được báo cáo về điều đó tại La Mã.»

Nghe đến đây, khuôn mặt khách đỏ hồng lên, anh ta đứng dậy nghiêng mình bái lễ quan tổng trấn và nói:

«Tôi chỉ thi hành nghĩa vụ của mình để phục vụ Hoàng Ðế!»

«Nhưng ta muốn xin với ngươi một điều, - ighemon nói tiếp, - nếu như ngươi được thăng chức và chuyển đi khỏi nơi này, hãy từ chối và xin ở lại đây. Ta hoàn toàn không muốn phải xa ngươi. Cứ để cho người ta khen thưởng ngươi bằng một cách khác.»

«Tôi rất vinh hạnh được phục vụ dưới quyền ngài, thưa ighemon.»

«Ta rất hài lòng với điều đó. Và bây giờ việc thứ ba. Nó liên quan đến tên... hắn gọi là gì nhỉ... tên Giuda quê ở thành Kiriaph.»

Ðến đây, người khách một lần nữa ném ánh mắt đặc biệt của mình sang phía quan tổng trấn; nhưng như mọi lần, lại lập tức tắt nó đi ngay.

«Người ta nói rằng, - hạ thấp giọng, quan tổng trấn tiếp tục, - dường như hắn đã nhận tiền trả công việc hắn tiếp đón nhà triết học mất trí kia ở nhà mình một cách nồng nhiệt như vậy.»

«Hắn sẽ nhận», - viên chỉ huy mật vụ khẽ chữa lại lời của Pilat.

«Thế số tiền có lớn không?»

«Ðiều đó thì không ai có thể biết được, thưa ighemon.»

«Thậm chí cả ngươi?» - ighemon bày tỏ sự khen ngợi của mình bằng vẻ ngạc nhiên.

«Vâng, thậm chí cả tôi, - khách bình tĩnh đáp. - Nhưng tôi biết rằng hắn sẽ được nhận số tiền đó tối nay. Hôm nay hắn được gọi đến lâu đài của Kaipha.»

«Ôi, cái lão già tham lam quê ở Kiriaph! - Pilat mỉm cười, nói. - Ðúng là hắn già rồi phải không?»

«Quan tổng trấn không bao giờ sai lầm, nhưng lần này ngài đã lầm, - người khách lễ độ đáp lời, - tên quê ở thành Kiriaph hãy còn trẻ.»

«Thế đấy! Ngươi có thể nói cho ta nghe vài đặc điểm của hắn không? Là một kẻ cuồng tín à?»

«Ồ không, thưa quan tổng trấn.»

«Thế đấy. Còn gì nữa không?»

«Rất đẹp trai.»

«Còn gì nữa? Có thể, hắn say mê một cái gì chăng?»

«Khó có thể biết chính xác như vậy về tất cả mọi người trong cái thành phố đồ sộ này, thưa quan tổng trấn.»

«Ồ không, không, Aphrani! Ðừng giảm nhẹ công lao của mình như thế!»

«Hắn có một niềm say mê, thưa quan tổng trấn, - khách ngừng lời một thoáng. - Say mê tiền.»

«Thế hắn làm việc gì?»

Aphrani ngước mắt nhìn lên trời, nghĩ một lúc và đáp:

«Hắn làm ở cửa hiệu đổi tiền của một người họ hàng ạ.»

«Ra thế, thế, thế, thế. - Quan tổng trấn chợt ngừng lời, đưa mắt nhìn quanh xem có ai ở trên ban công không, rồi nói khẽ: - Sự việc là ở chỗ, hôm nay ta nhận được tin rằng hắn sẽ bị giết chết.»

Nghe đến đây, người khách không chỉ ném cái nhìn đặc biệt của mình sang phía quan tổng trấn, mà còn dừng nó lại một lúc, sau đó mới đáp:

«Thưa ighemon, ngài đã quá khen khi phán xét về tôi. Theo tôi, tôi không xứng đáng với lời báo cáo của ngài về La Mã. Tôi không có những tin đó.»

«Ngươi xứng đáng với sự khen thưởng cao nhất, - Pilat đáp. - Nhưng quả có những tin như vậy.»

«Tôi xin mạo muội dám hỏi, những tin đó là do ai cung cấp ạ?»

«Hãy cho phép ta không nói ra điều đó, nhất là những tin này hoàn toàn ngẫu nhiên, đen tối và không đáng tin cậy. Nhưng ta cần phải thấy trước tất cả. Ðó là trách nhiệm của ta, và hơn nữa ta buộc phải tin vào linh cảm của ta, bởi vì chưa bao giờ nó đánh lừa ta. Những tin tức này tóm lại như sau: có một người nào đó trong số bạn bè bí mật của Ha-Notxri, phẫn nộ trước sự phản bội quái đản của tên làm nghề đổi tiền này, đã thỏa thuận với các đồng bọn của mình sẽ giết hắn tối nay, còn số tiền nhận được do sự phản bội sẽ đem ném vào nhà đại tư tế với mẩu giấy: “Ta trả lại số tiền đáng nguyền rủa!”

Viên chỉ huy mật vụ không còn ném thêm những cái nhìn đột ngột của mình sang phía ighemon nữa, mà tiếp tục nghe, mắt nheo lại. Còn Pilat vẫn nói:

«Ngươi thử tưởng tượng xem, ngài đại tư tế có hài lòng không, khi vào đêm hội hôm nay lại nhận được một món quà như thế?»

«Không chỉ không hài lòng, - người khách mỉm cười, đáp, - mà tôi cho rằng, thưa quan tổng trấn, điều đó sẽ gây ra một vụ bê bối rất lớn.»

«Ta cũng cho là như vậy. Vì thế ta yêu cầu ngươi hãy lo việc này, nghĩa là hãy áp dụng các biện pháp để bảo vệ gã Giuda quê ở thành Kiriaph.»

«Mệnh lệnh của ighemon sẽ được thi hành, - Aphrani đáp. - Nhưng tôi cần phải nói để ighemon yên lòng: âm mưu của bọn độc ác kia sẽ cực kỳ khó thực hiện. Bởi vì ngài thử nghĩ xem, - người khách vừa nói vừa quay lại, và tiếp: - theo dõi một người, giết chết, lại còn biết số tiền nhận được là bao nhiêu, rồi khéo léo trả lại tiền cho Kaipha, và tất cả những cái đó chỉ trong một đêm? Vào ngày hôm nay?»

«Mặc dù vậy, người ta vẫn giết hắn tối nay, - Pilat bướng bỉnh nhắc lại. - Ta bảo với ngươi là ta có linh cảm mà! Chưa có trường hợp nào nó đánh lừa ta», - một cơn co giật thoáng qua trên khuôn mặt quan tổng trấn, và Pilat khẽ lau tay.

«Xin tuân lệnh, - khách đáp với vẻ phục tùng, đứng dậy, vươn thẳng người lên và đột ngột hỏi một cách nghiêm khắc: - Nghĩa là hắn sẽ bị đâm chết, thưa ighemon?»

«Ðúng thế, - Pilat đáp, - và toàn bộ hy vọng chỉ trông vào tính thừa hành khiến tất cả phải kinh ngạc của ngươi.»

Người khách sửa lại dải thắt lưng nặng dưới chiếc áo choàng và nói:

“Xin chúc ngài bình an và vui vẻ.”

“À phải, - Pilat khẽ kêu lên, - ta quên bẵng mất! Ta còn nợ ngươi mà!... »

Người khách kinh ngạc.

«Thưa quan tổng trấn, ngài không nợ gì tôi cả ạ.»

«Tại sao lại không? Khi ta đi vào Iersalaim, ngươi còn nhớ không, một đám hành khất... ta muốn tung tiền cho chúng, nhưng ta lại không mang theo, nên đã lấy của ngươi..»

«Ồ thưa quan tổng trấn, đó chỉ là chuyện vặt vãnh thôi mà!»

«Cả những chuyện vặt vãnh cũng phải nhớ.»

Nói xong, Pilat quay người, nâng tấm áo choàng vắt trên lưng ghế bành phía sau ngài, rút từ dưới áo ra một chiếc túi bằng da và trao cho khách.

Aphrani cúi mình nhận lấy rồi giấu vào dưới lần áo choàng.

«Ta đợi, - Pilat lại lên tiếng, - ta đợi nghe báo cáo về việc chôn cất cũng như về việc tên Giuda quê ở Kiriaph ngay vào tối nay. Aphrani, ngươi nghe không, ngay tối nay. Bọn lính gác sẽ được lệnh đánh thức ta ngay khi ngươi vừa xuất hiện ở đây. Ta đợi ngươi!»

«Rất vinh hạnh, - chỉ huy đội mật vụ đáp và quay mình rời khỏi ban công. Lúc đầu còn nghe tiếng bước chân của anh ta lạo xạo trên cát ướt của bãi sân thượng, rồi tiếng ủng của anh ta trên nền đá hoa cương giữa hai con sư tử. Rồi chân anh ta bị che khuất, rồi lưng, và cuối cùng cả chiếc mũ chụp cũng biến mất. Chỉ đến lúc đó quan tổng trấn mới thấy rằng mặt trời không còn nữa và bóng hoàng hôn đã ập đến tự lúc nào.

Nguồn: Nguyên tác tiếng Nga MACTEP И МАРГАРИТА. In lần đầu tiên ở tạp chí Moskva, số 11 năm 1966 và số 1 năm 1967 nhưng bị cắt bỏ nhiều. Năm 1973 được in đầy đủ theo bản thảo lưu giữ ở Thư viện Quốc gia mang tên V. I. Lenin. Bản dịch tiếng Việt của Ðoàn Tử Huyến Mikhail Bulgakov, Nghệ nhân và Margarita, Nhà xuất bản Cầu Vồng và Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới hợp tác xuất bản, Moskva 1989, với lời giới thiệu của Giáo sư Viện sĩ Thông tấn P. Nikolaev, thực hiện theo Mikhail Bulgakov, Các tiểu thuyết Bạch vệ, tiểu thuyết sân khấu, Nghệ nhân và Margarita, Nhà Xuất bản Văn học, Moskva, 1973. Lần in thứ hai trong Mikhail Bulgakov. Tuyển tập văn xuôi, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1998, bản dịch đã được dịch giả xem lại đối chiếu với nguyên bản tiếng Nga in trong M. Bulgakov, Tuyển tập tác phẩm năm tập, tập 5, nhà xuất bản Văn học, Moskva, 1990. Phần chú giải được soạn dựa nhiều vào các chú giải của G. Lesskis in trong tập nói trên. Bản in lần này theo Nghệ Nhân và Margarita trong tập M. Bulgakov, Tuyển tập văn xuôi, Nxb Văn học, 1996, có sửa chữa một số chỗ.

[1]Phalerno: rượu vang trắng nổi tiếng thời La Mã. Xecuba: rượu vang đỏ. Ở đây Bulgacov cần thay phalerno bằng xecuba để có ấn tượng màu đỏ máu vẫn trở đi trở lại trong tiểu thuyết.
[2]Bữa tiệc của mười hai vị thần: theo thần thoại La Mã, 12 vị thần thượng đẳng là Jumona, Vesta, Minerva, Xerera, Diana, Venera, Mars, Merkuri, Jupiter, Neptun, Vulkan, Apollon.
[3]Messia (tiếng Do Thái: người được xức dầu): theo tục lệ xưa, các vua chúa, đại tư tế... khi nhận chức được làm lễ xức dầu thơm; về sau từ messia có nghĩa là Đấng Cứu Thế, trong Tân Ước từ này dùng để chỉ Giesu Christ.
[4]... cho chúng uống: chỉ tục lệ cho các tử tù uống rượu vang để giảm bớt đau đớn khi bị hành hình.

Mikhail Bulgakov Nhà văn Nga, sinh ngày 15.5.1891 tại Kiev, mất ngày 10.3.1940 tại Maxcơva

Đoàn Tử Huyến sinh năm 1952 tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nguyên là Giảng viên văn học Nga tại Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Biên tập viên NXB Lao động, Phó Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội nhà văn Việt Nam. Hiện là Chủ tịch Hội đồng khoa học của Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây.

Đã dịch trên 30 tác phẩm văn học từ tiếng Nga, trong đó có tập truyện vừa Những quả trứng định mệnh, kịch A. Puskin, truyện vừa Trái tim chó, tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita của M. Bulgakov, truyện vừa Đêm trắng của F. Doxtoevski, tiểu thuyết Đấng Cứu Thế của Otero Silva, tiểu thuyết Bố già của Mario Puzo (dịch cùng Trịnh Huy Ninh) v.v.

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài