talawas chủ nhật

 
Tác phẩm dịch :: 22.10.2006
Mikhail BulgakovNghệ nhân và Margarita

Phần 1 Phần 2 Phần phụ lục

Mikhail Bulgakow
Mikhail Bulgakow (1891-1940)

“Trong di sản văn học nhân loại không ít những tác phẩm để đến được bạn đọc phải trải qua bao gian truân, tốn bao công sức, nhưng một số phận như Nghệ nhân và Margarita quả thật hiếm có. Ðược viết trong mười hai năm, bắt đầu từ năm 1928 với cái tên dự định là Tiểu thuyết về quỷ sứ, bị xé, bị đốt, viết đi viết lại bảy lần; cho đến năm 1940 nằm trên giường bệnh, mắt lòa, Bulgakov vẫn đọc cho vợ sửa chữa; sau khi nhà văn qua đời, người vợ tận tụy là Elena Sergheevna Bulgakova cùng bạn bè và những người hâm mộ ông sau hơn một phần tư thế kỷ chạy vạy mới công bố được tác phẩm bị cắt xén "một cách man rợ" trên tờ tạp chí Moskva. Nhưng ngay ở dạng bị lược bỏ này cuốn tiểu thuyết cũng gây nên chấn động lớn…” (Đoàn Tử Huyến)

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn văn tác phẩm đặc sắc này qua bản dịch từ nguyên bản tiếng Nga của Đoàn Tử Huyến.

talawas chủ nhật

Mikhail Bulgakov

Nghệ nhân và Margarita

Đoàn Tử Huyến

Phần 2

Chương 19: Margarita Chương 20: Hộp kem Azazello Chương 21: Chuyến bay Chương 22: Dưới ánh nến Chương 23: Ðại vũ hội của Chúa quỷ Satan Chương 24: Sự giải thoát cho nghệ nhân Chương 25: Quan tổng trấn đã cố gắng cứu tên Giuda ở thành phố Kiriaph như thế nào? Chương 26: Việc chôn cất Chương 27: Kết cục của căn hộ số 5 Chương 28: Những trò phiêu lưu cuối cùng của Koroviev và Beghemot Chương 29: Số phận của nghệ nhân và Margarita đã được định đoạt Chương 30: Ðã đến lúc! Ðã đến lúc! Chương 31: Trên đồi Vorobiev Chương 32: Sự tha thứ và chốn nương thân muôn đời Phần kết

 

Chương 26:
Việc chôn cất



Có thể chính cái bóng hoàng hôn đó là nguyên nhân khiến cho vẻ ngoài của quan tổng trấn thay đổi đi rất nhiều. Ngài dường như già đi trông thấy, lưng gù xuống, và thêm vào đó lại còn có vẻ bồn chồn. Một lần, ngài nhìn quanh, và khi ánh mắt đụng phải chiếc ghế bành trống với tấm áo choàng vắt ngang tay vịn, không hiểu sao ngài bỗng rùng mình. Ðêm lễ Vượt Qua đang tới gần, những bóng đen chập chờn nhảy múa, và có lẽ quan tổng trấn mệt mỏi ngỡ rằng một người nào đó đang ngồi trong chiếc ghế bành trống. Sau khi làm một cử chỉ lộ vẻ hèn nhát là khẽ lật chiếc áo choàng lên, quan tổng trấn lại bỏ nó xuống và bắt đầu đi đi lại lại trên ban công, khi thì chùi hai tay vào nhau, khi thì chạy đến bên bàn chộp lấy cốc rượu, khi thì dừng lại và ngây dại nhìn xuống sàn nhà đá khảm, dường như muốn đọc những dòng chữ nào đó ở đấy.

Trong ngày hôm nay, đây đã là lần thứ hai ngài bị một nỗi buồn chán như vậy xâm chiếm. Vừa lấy tay xoa xoa lên thái dương, ở đó cơn đau khủng khiếp buổi sáng giờ chỉ còn là một sự âm ỉ nhắc nhớ lại, quan tổng trấn cố sức hiểu xem nguyên nhân của những nỗi đau dằn vặt tâm hồn mình là ở đâu. Và ngài đã nhanh chóng hiểu ra điều đó, nhưng lại cố đánh lừa bản thân mình. Ngài nhận thức rõ rằng, trưa nay ngài đã phạm sai lầm không cứu vãn được và bây giờ ngài muốn sửa chữa cái sai lầm đó bằng những hành động vụn vặt, nhỏ nhen, và cái chính là đã quá muộn màng. Sự lừa dối chính bản thân mình là ở chỗ quan tổng trấn cố thuyết phục mình rằng những hành động đang diễn ra giờ đây, trong đêm tối này, cũng không kém phần quan trọng so với cái bản án sáng nay. Nhưng điều đó quan tổng trấn không đạt được bao nhiêu.

Ðang bước đi, ngài bỗng dừng lại đột ngột và huýt gió lên một tiếng. Ðáp lại, từ trong bóng hoàng hôn vang lên tiếng sủa trầm đục; một con chó khổng lồ, tai nhọn, lông xám, đeo vòng cổ với những tấm bảng mạ vàng, từ dưới vườn nhảy lên ban công.

«Banga, Banga», - quan tổng trấn yếu ớt gọi.

Con chó đứng bằng hai chân sau, đặt hai chi trước lên vai quan tổng trấn khiến ngài suýt nữa ngã xuống sàn, và nó liếm lên một bên má ông chủ. Quan tổng trấn ngồi vào ghế bành, Banga thè lưỡi, thở hổn hển, nằm xuống cạnh chủ, và sự vui mừng biểu lộ trong mắt con chó có nghĩa rằng đã qua rồi cơn giông, điều duy nhất trên đời làm con chó dũng cảm này sợ, và rằng giờ nó lại được ở đây, bên cạnh con người nó yêu quý và kính trọng, người nó cho là hùng mạnh nhất trên thế gian, người ra lệnh cho tất cả những con người, nhờ có người đó mà nó cũng tự cho mình là một tạo vật bậc cao được ưu đãi đặc biệt. Nhưng, nằm xuống cạnh chân Pilat, và thậm chí không nhìn ngài, mà nhìn xuống khu vườn đang vào đêm, con chó cũng hiểu ngay rằng chủ của nó đang gặp điều bất hạnh. Vì vậy, nó thay đổi tư thế, đứng dậy, bước sang bên và đặt mõm cùng đôi chân trước lên đùi quan tổng trấn, làm lấm cát ướt lên vạt chiếc áo choàng. Chắc hẳn hành động này của Banga có nghĩa là nó muốn an ủi ông chủ của mình và tỏ ý sẵn sàng cùng với ngài đón gặp điều bất hạnh. Ðiều đó nó cố gắng thể hiện ra cả trong cặp mắt hướng về phía chủ, cả trong đôi tai dựng lên căng thẳng. Trong tư thế như vậy cả hai, người lẫn chó, hai tạo vật yêu quý lẫn nhau, đã đón gặp đêm lễ Vượt Qua trên ban công.

Trong lúc đó, người khách của quan tổng trấn đang trải qua rất nhiều bận rộn. Rời bãi sân thượng của khu vườn phía trước ban công, anh ta theo cầu thang đi xuống dẫy hàng hiên tiếp đó của khu vườn, rẽ sang phải, rồi bước ra khu trại lính nằm trên địa phận của tòa lâu đài. Ðóng trong khu trại lính này là hai kenturia cùng đi với quan tổng trấn đến Iersalaim vào dịp những ngày lễ hội này và đội mật vụ của ngài do chính người khách nọ chỉ huy. Người khách ở lại trong trại không lâu, chỉ chừng mười phút, nhưng trong khoảng mười phút đó, có ba cỗ xe ngựa chở các dụng cụ công binh và mấy thùng đựng nước từ trong sân trại đi ra. Ði theo các cỗ xe là mười lăm người cưỡi ngựa mặc áo choàng xám. Với sự hộ tống của họ, ba cỗ xe lăn bánh ra khỏi địa phận lâu đài qua cửa sau, nhằm về hướng Tây qua cổng thành, đi một lúc theo con đường nhỏ dẫn ra đường đi Viphleem, sau đó theo con lộ này ngược lên hướng Bắc cho đến ngã tư cổng ô Hevrov; đến đó họ xuôi theo đường đi Iapha, đúng theo hướng lúc sáng đoàn diễu hành với những kẻ bị tử hình đã đi qua. Ðến lúc này trời bắt đầu tối, mặt trăng đã hiện ra nơi chân trời.

Ðoàn xe với đội hộ tống vừa đi được một lát, thì người khách của quan tổng trấn, giờ mặc một chiếc áo choàng hitôn màu đen thẫm đã cũ sờn, cũng cưỡi ngựa rời khỏi địa phận lâu đài. Người khách không đi ra ngoại ô, mà theo hướng vào thành phố. Một lúc sau, ta đã có thể trông thấy anh ta đang phi đến cổng pháo đài Antoni nằm ở phía Bắc gần sát ngay ngôi đền vĩ đại. Khách dừng lại trong pháo đài cũng không lâu, rồi sau đó đã lại thấy dấu vết của anh ta ở Hạ Thành, giữa những đường phố quanh co và rối rắm. Lần này, người khách cưỡi la để đi đến đây.

Vốn rất biết rõ thành phố, người khách dễ dàng tìm ra được đường phố mà anh ta cần. Nó mang tên là phố Hy Lạp, vì ở đây có mấy cửa hiệu người Hy Lạp, trong số đó có một hiệu buôn thảm. Chính ở trước cửa hiệu này người khách dừng lại, nhảy xuống đất và buộc con la của mình vào chiếc vòng ở cổng. Hiệu buôn đã đóng cửa. Người khách bước qua chiếc cổng nhỏ nằm sát cạnh tiệm buôn, vào một khoảng sân vuông nhỏ với mấy dẫy nhà kho dựng thành hình chữ U. Rẽ vào góc sân, người khách đến cạnh hàng hiên lát đá mọc đầy dây trường xuân của một ngôi nhà ở và nhìn quanh. Cả trong nhà lẫn trong các kho đều tối om, chưa có đèn lửa gì. Người khách khẽ gọi:

«Niza!»

Ðáp lại tiếng gọi đó, cánh cửa mở ra, và trong bóng hoàng hôn chạng vạng, một người đàn bà còn trẻ không mang mạng che mặt xuất hiện trên hàng hiên. Chị ta cúi mình trên dãy tay vịn, lo lắng đưa mắt nhìn kỹ, cố nhận xem người mới đến là ai. Sau khi nhận ra người khách, chị ta mỉm cười thân mật, gật đầu, vẫy tay chào.

«Cô có một mình thôi à?» - Aphrani hỏi nhỏ bằng tiếng Hy Lạp.

«Một mình, - người đàn bà trên hàng hiên đáp. - Chồng em sáng nay đã đi Kesaria, - nói đến đây, chị ta ngoái nhìn vào cửa và thì thầm tiếp: - Nhưng bà đầy tớ có nhà». - Nói xong chị ta làm một cử chỉ ra hiệu “Vào nhà đi”. Aphrani ngoái nhìn quanh và đặt chân lên bậc thềm đá. Sau đó cả anh ta lẫn người đàn bà khuất hẳn trong nhà.

Aphrani ở nhà người đàn bà này cũng không lâu - không thể nào quá năm phút. Sau đó anh ta ra khỏi nhà, bước xuống hiên, kéo sụp chiếc mũ chụp xuống mặt và đi ra đường phố. Trong các ngôi nhà, đèn nến đã được thắp lên, người đón chờ dự lễ rất đông, và Aphrani với con la của mình biến mất trong dòng người đi bộ và cưỡi la, cưỡi ngựa. Tiếp đó không còn ai biết con đường của anh ta dẫn đến đâu.

Sau khi Aphrani đi khỏi, người đàn bà mà anh ta gọi là Niza bắt đầu thay quần áo. Chị ta có vẻ rất vội vã. Nhưng dù cho có phải khó khăn tìm kiếm những vật cần thiết ở trong căn phòng tối đến mấy, chị ta vẫn không thắp đèn lên và không gọi bà đầy tớ tới giúp. Chỉ sau khi tất cả đã xong xuôi và trên đầu đã mang chiếc mạng che mặt, trong ngôi nhà nhỏ mới vang lên giọng nói của Niza:

«Nếu ai có hỏi, bảo là ta đến chơi nhà Enanta nhé.»

Ðáp lại, nghe có tiếng lẩm bẩm của bà già đầy tớ trong bóng tối:

“Enanta? Ôi, cái ả Enanta này! Mà cậu nhà đã cấm đến đó rồi kia mà? Cái ả Enanta là ma cô đấy! Tôi sẽ về nói lại với cậu nhà...”

“Này này, im miệng đi!” - Niza đáp và như một cái bóng luồn ra khỏi cửa. Tiếng xăng đan của Niza gõ trên mặt sân lát đá. Bà đầy tớ già đóng chặt cánh cửa dẫn ra hàng hiên. Niza rời khỏi nhà mình.

Cũng vào lúc đó, từ một ngõ phố khác của Hạ Thành, cái ngõ phố gẫy góc lồi lõm chạy ra một trong những chiếc hồ của thành phố, từ cổng hàng rào của một ngôi nhà xấu xí ngoảnh mặt tường bít kín của mình ra ngõ phố, còn cửa số hướng vào sân, xuất hiện một người đàn ông trẻ với bộ ria xám tỉa cẩn thận, chiếc khăn đội đầu kephi trắng sạch sẽ rủ xuống vai, mình khoác áo tallif mới màu xanh ngày hội với những chùm tua ở phía dưới, chân diện đôi xăng đan mới tinh bước đi kêu cót két. Một gã đàn ông mũi quặp điển trai ăn diện nhân ngày lễ lớn. Anh ta bước đi sảng khoái, vượt những người cùng đường đang vội vã về nhà để kịp bữa tiệc tối, nhìn những ô cửa sổ theo nhau sáng đèn. Người đàn ông trẻ tuổi này đi dọc theo con đường chạy qua khu chợ dẫn đến lâu đài của đại tư tế Kaipha nằm dưới chân ngọn đồi của ngôi đền vĩ đại.

Một lúc sau đã có thể thấy người đó bước vào cổng lâu đài của Kaipha. Và thêm một lát sau nữa lại thấy anh ta rời khỏi tòa lâu đài đó.

Sau mấy phút ở trong tòa lâu đài, nơi đèn đuốc đã sáng trưng và đang diễn ra cảnh hội hè tấp nập, người đàn ông trẻ bước đi lại càng sảng khoái, vui vẻ hơn, anh ta vội vã quay trở lại Hạ Thành. Ngay ở góc phố rẽ vào chợ, trong đám đông chen lấn xô đẩy, một người đàn bà mang mạng che mặt đen buông xuống tận mắt với dáng đi nhún nhẩy đuổi kịp anh ta. Khi đi ngang qua gã đàn ông trẻ tuổi điển trai, người đàn bà trong một thoáng nâng tấm mạng che mặt lên, vụt liếc nhìn sang phía anh ta, nhưng không hề bước chậm lại, mà còn rảo bước thêm, dường như cố tình tránh mặt người đàn ông mà chị ta vừa đuổi kịp.

Gã đàn ông trẻ không những trông thấy người đàn bà đó, mà còn nhận ra chị ta là ai; gã giật mình, đứng lại, ngơ ngác nhìn theo lưng chị ta, rồi lập tức chạy đuổi theo. Suýt nữa thì xô ngã một người qua đường ôm bình trong tay, gã đàn ông đuổi kịp người đàn bà, vừa thở hổn hển vừa gọi:

“Niza!”

Người đàn bà quay lại nheo mắt nhìn, trên khuôn mặt của chị ta hiện lên một vẻ bực bội lạnh lùng, rồi Niza khô khan đáp bằng tiếng Hy Lạp:

«À anh Giuda đấy à? Thế mà em không nhận ra anh ngay. Ðiều đó là tốt thôi. Người ta nói rằng ai mà người khác không nhận ra, người đó sẽ giàu có.»
Hồi hộp đến mức tim nhảy loạn lên như một con chim trong lồng phủ vải đen, Giuda hỏi bằng giọng thì thào ngắt quãng, sợ những người qua đường nghe thấy:

«Em đi đâu đấy, Niza?»

«Thế anh biết để làm gì?» - Niza bước chậm lại, nhìn Giuda với vẻ kênh kiệu, hỏi.

Giuda bối rối thì thầm, trong giọng nói của gã nghe có cái gì như trẻ con:

«Nhưng sao lại thế...? Chúng ta đã hẹn với nhau rồi cơ mà. Anh đã định đến nhà em. Em nói rằng suốt tối nay em sẽ ở nhà...»

«Ồ không, không, - Niza đáp và đỏng đảnh dẩu làn môi dưới ra làm cho Giuda cảm thấy khuôn mặt của Niza, cái khuôn mặt đẹp nhất mà gã được gặp trong đời, lại càng thêm quyến rũ hơn, - em thấy buồn quá. Hôm nay là ngày hội của các anh, còn em thì biết phải làm gì? Ngồi và nghe anh thở ngắn thở dài ngoài hiên ấy à? Rồi lại còn sợ mụ già đầy tớ mách với chồng? Không, không, em định đi nghe họa mi hót ngoài ngoại ô.»

«Sao lại ngoài ngoại ô? - Giuda ngơ ngác hỏi. - Một mình?»

«Tất nhiên là một mình», - Niza đáp.

«Cho phép anh cùng đi với.» - Giuda cảm thấy nghẹt thở, nói khẩn khoản. Ðầu gã như mụ đi, và gã quên hết thảy mọi thứ trên đời, với vẻ van lơn nhìn vào đôi mắt xanh biếc nhưng bây giờ lại có vẻ đen thẫm của Niza.

Niza không đáp lại lời nào, chỉ rảo bước thêm.

«Sao em lại im lặng, Niza?» - Giuda cũng bước nhanh hơn, thiểu não nói.

«Thế em sẽ không buồn nếu đi với anh sao?» - Niza bỗng hỏi và dừng lại. Những ý nghĩ của Giuda rối mù lên.

«Thôi được, - cuối cùng Niza dịu giọng xuống, - nào thì đi.»

«Ði đâu, đi đâu?»

«Hượm đã nào... ta rẽ vào cái sân kia nói chuyện, không thì em sợ có ai trong số người quen trông thấy rồi mọi người lại nói là em đứng với tình nhân ngoài phố.»

Một thoáng sau đã không thấy bóng Giuda và Niza ngoài bãi chợ nữa, họ đứng thì thầm với nhau cạnh lối vào sân của một ngôi nhà nào đó.

«Hãy đi đến trại dầu ôliu, - Niza thì thầm, kéo mạng che mặt xuống quá mắt và quay đi tránh mặt một người nào đó xách xô đi vào sân, - đến Ghevximania, phía bên kia suối Kedron ấy, hiểu chưa?»

«Hiểu, hiểu, hiểu.»

«Em sẽ đi trước, - Niza nói tiếp, - nhưng anh đừng đi sát gót em, mà cách ra một quãng. Em sẽ đi lên trước. Khi qua con suối... anh biết cái hang ở đâu chứ?»

«Anh biết, anh biết...»

«Anh hãy đi ngang qua chỗ máy ép dầu ôliu lên phía trên rồi rẽ xuống cửa hang. Em sẽ ở đó. Nhưng anh không được đi ngay bây giờ theo em, phải biết kiên nhẫn, chờ ở đây.» - Nói xong, Niza đi ra khỏi sân, dường như không hề nói chuyện với Giuda.

Giuda đứng lại một lúc, cố tập trung những suy nghĩ của mình lại. Trong số đó có một ý nghĩ: phải giải thích sự vắng mặt của mình trong bữa tiệc ở nhà họ hàng tối nay như thế nào đây? Giuda đứng một mình và suy nghĩ cách nói dối, nhưng vì quá hồi hộp nên không nghĩ được gì cho ra đầu ra đũa, và đôi chân, ngoài ý muốn của gã, đã mang chủ ra khỏi sân.

Thế rồi gã thay đổi hướng đi của mình, gã không còn vội về Hạ Thành nữa, mà quay ngược trở lại về phía lâu đài của Kaipha. Bây giờ Giuda hầu như không trông thấy gì xung quanh. Ðêm lễ đã bắt đầu trong thành phố. Xung quanh Giuda, trong các cửa sổ không chỉ sáng rực ánh đèn, mà còn vang lên những lời nâng cốc tán tụng. Những người chậm chân cuối cùng quất roi hò hét giục lừa bước nhanh. Ðôi chân tự mang Giuda đi, và gã không nhận thấy mình đã chạy qua ngọn tháp Antoni đầy rêu khủng khiếp như thế nào, không nghe thấy tiếng kèn đồng rống inh ỏi trong pháo đài, hoàn toàn không để ý đến đội tuần tra kỵ binh La Mã vung đuốc chập chờn trên đường gã qua. Khi đã qua khỏi ngọn tháp của pháo đài, Giuda ngoái lại và trông thấy ở một độ cao khủng khiếp phía trên ngôi Ðền Thờ hai chùm đèn hình sao năm cánh khổng lồ đã được thắp sáng. Nhưng Giuda trông thấy chúng một cách lờ mờ, gã ngỡ rằng phía trên thành phố Iersalaim tỏa sáng mười ngọn đèn lớn chưa từng thấy, ánh sáng của chúng như muốn ganh đua với ánh sáng của ngọn đèn duy nhất mỗi lúc một lên cao trên thành Iersalaim - ngọn đèn mặt trăng. Bây giờ thì Giuda không còn quan tâm đến bất cứ một cái gì khác, gã rảo bước hướng về phía cửa ô Ghevsimania, chỉ mong sao rời khỏi thành phố thật nhanh. Thỉnh thoảng gã lại tưởng như trông thấy phía trước mặt mình, giữa những tấm lưng và khuôn mặt của người qua đường, thấp thoáng một dáng đi nhún nhảy như vẫy gọi gã chạy theo. Nhưng đó chỉ là điều tưởng tượng - Giuda hiểu rằng Niza đã đi trước gã rất xa. Giuda chạy ngang qua những cửa hiệu đổi tiền, rồi cuối cùng cũng đã đến được cổng ô Ghevsimania. Tại đây, phát điên lên vì sốt ruột, gã vẫn phải dừng lại. Một đoàn lạc đà nối đuôi nhau qua cổng vào thành phố, và tiếp liền theo đó là một đội tuần tiễu người Siri mà Giuda thầm nguyền rủa...

Nhưng rồi tất cả cũng kết thúc. Và giờ đây gã Giuda nôn nóng đã ở phía ngoài bức tường thành. Phía tay trái, Giuda trông thấy một khu nghĩa địa nhỏ, cạnh đấy là mấy túp lều bằng vải sọc của những người hành hương. Chạy theo con đường đầy bụi lênh láng ánh trăng, Giuda rảo bước về phía con suối Kedron để lội qua đó. Nước chảy róc rách khe khẽ dưới chân. Nhảy từ hòn đá này sang hòn đá khác, cuối cùng gã leo lên bờ Ghevximania đối diện phía bên kia và vô cùng mừng rỡ khi thấy rằng con đường trên các khu vườn ở đấy hoàn toàn vắng người. Phía xa đã thấp thoáng hiện lên mấy cột cổng đã gần đổ nát của trại dầu ôliu.

Sau bầu không khí oi bức của thành phố, làn không khí ngây ngất của đêm xuân làm cho Giuda sửng sốt. Từ khu vườn lọt qua hàng rào tỏa ra từng đợt sóng mùi hương của những cây xiêm gai và sim từ các bãi rừng trống trên bờ Ghevsimania.

Cổng trại không có ai canh giữ, xung quanh cũng không một bóng người, và mấy phút sau Giuda đã chạy dưới bóng đen huyền bí của những cây dầu ôliu cao lớn nhiều cành. Con đường chạy ngược dốc, Giuda vừa đi lên vừa thở nặng nhọc, chốc chỗc lại từ trong bóng tối dày đậm bước ra những tấm thảm hoa dệt bằng ánh trăng lốm đốm, chúng làm cho gã nhớ lại những tấm thảm gã trông thấy trong cửa hiệu của người chồng cả ghen của Niza. Một lát sau, phía tay trái của Giuda, giữa bãi trống, đã thấp thoáng cỗ máy ép dầu ôliu với bánh xe nặng bằng đá và một đống thùng ngổn ngang. Trong vườn không có ai cả. Công việc đã kết thúc lúc chiều. Khắp cả khu vườn không một bóng người, và tiếng chim họa mi vang lên lảnh lót trên đầu Giuda.

Mục tiêu của Giuda đã sát kề. Gã biết rằng ở phía tay phải, trong bóng tối, ngay bây giờ sẽ nghe thấy tiếng nước chảy róc rách khe khẽ trong hang. Và quả đúng như vậy, gã đã nghe thấy tiếng nước đổ. Không khí trở nên lạnh hơn.

Ðến đây gã bước chậm lại và cất tiếng gọi không to lắm:

«Niza!»

Nhưng thay vào chỗ Niza, một bóng đàn ông lực lưỡng tách khỏi thân cây ôliu to lớn nhảy ra mặt đường, một vật gì đó lóe sáng lên trong tay anh ta rồi tắt lịm đi ngay.

Giuda nhảy lùi lại và kêu lên yếu ớt:

«Ôi!»

Một bóng người thứ hai chặn ngang đường lùi của gã.

Bóng người thứ nhất, ở phía trước mặt, hỏi Giuda:

«Mày vừa nhận được bao nhiêu tiền? Nói ngay, nếu như muốn giữ mạng sống!»

Một tia hy vọng lóe lên trong tim Giuda. Gã tuyệt vọng hét lên:

“Ba chục tet'radrakhma [1] . Ba chục tet'radrakhma! Tất cả nhũng gì nhận được tôi đều mang theo. Tiền đây! Các ông lấy đi, nhưng hãy để cho tôi sống!”

Bóng người ở phía trước ngay tức khắc chộp lấy túi tiền từ tay Giuda. Và cũng liền trong nháy mắt ấy, ở phía sau lưng Giuda một con dao bay vụt lên như ánh chớp, cắm phập vào lưng gã người tình.

Giuda bị hất mạnh lên phía trước, hai bàn tay với những ngón co quắp vung lên không. Bóng người ở phía trước phóng lưỡi dao của mình ra đón Giuda và cắm phập nó đến tận cán vào trái tim của gã.

“Niz...za...” - Giuda thốt lên không phải bằng giọng nam cao trẻ trung ngân vang của mình, mà bằng giọng trầm thấp và đầy trách móc, rồi sau đó không thốt ra thêm một âm thanh nào nữa. Xác của gã đập mạnh xuống đường đến nỗi mặt đất phát ra một tiếng kêu âm vang.

Lúc đó một bóng người thứ ba xuất hiện trên mặt đường. Người thứ ba này mặc áo choàng đội mũ chụp đầu.

“Nhanh lên”, - người thứ ba ra lệnh. Hai tên sát nhân gói túi tiền cùng với mẩu giấy do người thứ ba trao cho vào một miếng da và dùng dây thừng buộc lại. Tên thứ hai nhét gói da vào trong ngực áo, rồi cả hai tên giết người rời mặt đường chạy đi, bóng đêm nuốt chửng chúng giữa những cây ôliu. Còn người thứ ba ở lại, ngồi xổm xuống nhìn kỹ vào mặt xác chết. Dưới bóng cây, anh ta cảm thấy khuôn mặt đó trắng như phấn và không hiểu sao lại đẹp một cách đầy hứng khởi. Mấy giây đồng hồ sau, trên đường không còn một bóng người sống nào nữa. Cái xác không hồn nằm dang rộng hai tay, gót chân trái rơi vào vệt ánh trăng rọi xuống sáng đến nỗi có thể trông rõ từng quai da của chiếc xăng đan.

Cả khu vườn Ghevsimania trong lúc đó tràn ngập tiếng hót họa mi. Hai tên đâm chết Giuda đã đi hướng nào - không ai biết; nhưng ta có thể biết hành trình của người thứ ba đội mũ chụp. Rời con đường nhỏ, anh ta hướng sâu vào đám cây ôliu rậm rạp, đi xuống phía Nam. Anh ta leo qua hàng rào của khu vườn ở một chỗ cách xa cổng chính, tận góc phía Nam, nơi bức tường của hàng rào bị lở những dãy gạch phía trên. Một lát sau, anh ta đã ở trên bờ suối Kedron. Anh ta bước xuống nước và lội theo lòng suối một quãng cho đến khi trông thấy phía xa, bóng hai con ngựa và một người đứng cạnh chúng. Hai con ngựa cũng đứng dưới lòng suối. Nước róc rách rửa sạch vó ngựa. Tên mã phu nhảy lên một con ngựa, người đội mũ chụp nhảy lên con thứ hai. Họ chầm chậm đi theo dòng suối, và có thể nghe thấy tiếng sỏi đá lạo xạo dưới chân ngựa. Rồi hai kỵ sĩ rời dòng nước, leo lên bờ phía Iersalaim, bắt đầu phi nước kiệu dưới chân tường thành. Ðến đây, tên mã phu tách ra, phi vụt lên phía trước và mất hút, còn người đội mũ chụp dừng ngựa, nhảy xuống mặt đường hoang vắng, cởi chiếc áo choàng của mình ra, lộn trái, rút từ dưới áo ra một chiếc mũ giáp dẹp, không cắm lông chim, đội lên. Bây giờ nhảy lên ngựa là một người mặc áo choàng nhà binh với thanh đoản kiếm trên đùi. Anh ta giật cương, và con chiến mã nóng nảy phi nước đại, khiến người ky sĩ nhảy xốc lên. Con đường lần này không xa lắm. Một lát sau, kỵ sĩ đi đến cổng phía Nam của thành Iersalaim.

Dưới vòm cổng, những ngọn đuốc chập chờn nhảy múa. Những người lính canh thuộc kenturia thứ hai của legio Tia Chớp đang ngồi trên các ghế đá chơi xúc xắc. Trông thấy kỵ sĩ phi ngựa đến, đám lính vội nhảy bật dậy khỏi chỗ, nhưng anh ta khoát tay với họ rồi phóng nhanh vào trong thành.

Khắp thành phố rực rỡ ánh đèn, ánh lửa đêm hội. Ðèn sáng trưng trong tất cả các cửa sổ, nơi nơi tiếng chúc tụng vang lên hòa thành một bản đồng ca lộn xộn. Thỉnh thoảng nhìn vào các cửa sổ hướng ra đường phố, kỵ sĩ có thể trông thấy mọi người đang ngồi sau bàn tiệc, trên đó bày những đĩa thịt dê, những cốc rượu vang giữa những đĩa cỏ đắng. Vừa huýt sáo một điệu hát êm đềm nào đó, kỵ sĩ vừa thong thả phi ngựa qua những đường phố vắng vẻ của Hạ Thành, đi về phía tháp Antoni, chốc chốc lại đưa mắt nhìn lên chùm đèn sao chưa từng thấy ở đâu trên thế giới đang tỏa sáng rực rỡ trên ngôi Ðền Thờ, hoặc nhìn lên mặt trăng còn treo cao hơn những chùm đèn sao đó.

Lâu đài Herod Ðại Ðế hoàn toàn không tham dự vào đêm vui của lễ Vượt Qua. Chỉ riêng trong các gian phòng phụ của tòa lâu đài ngoảnh mặt về hướng Nam, nơi ở của các sĩ quan kogort La Mã và quan legat chỉ huy legio, là còn có ánh đèn, có cuộc sống và hoạt động; còn phần phía trước, nơi chỉ có một người trú ngụ duy nhất và bất đắc dĩ của tòa lâu đài - ngài quan tổng trấn - toàn bộ phần đại sảnh của nó, với những hàng cột tròn và những pho tượng mạ vàng, dường như bị rợn ngợp dưới ánh trăng tột cùng rực rỡ. Ngự trị ở đây, phía trong tòa lâu đài, là bóng tối cùng sự tĩnh mịch. Và quan tổng trấn, như ngài đã nói với Aphrani, không muốn vào đó. Ngài ra lệnh trải giường ở ngoài ban công, tại ngay nơi ngài đã dùng bữa tối, cũng là nơi buổi sáng đã tiến hành cuộc hỏi cung. Quan toàn quyền nằm xuống chiếc giường đã chuẩn bị sẵn cho ngài, nhưng giấc ngủ mãi vẫn không chịu đến. Mặt trăng trần trụi cất cao trên bầu trời sạch quang, và quan tổng trấn không rời mắt khỏi nó trong suốt mấy tiếng đồng hồ.

Khoảng nửa đêm, giấc ngủ mới thương tình đến với ighemon. Sau cái ngáp mệt mỏi, quan tổng trấn mở khuy, bỏ áo choàng, cởi chiếc thắt lưng ôm ngoài lần áo lót với con dao thép rộng bản gài trong bao, đặt nó lên mặt ghế bành cạnh giường, cởi đôi xăng đan ra khỏi chân và duỗi người ra. Con chó Banga lập tức cũng nhảy lên giường, nằm xuống bên cạnh, đầu sát đầu; quan toàn quyền, đặt một tay lên cổ con chó, cuối cùng cũng đã nhắm mắt lại. Và chỉ đến lúc đó con chó mới bắt đầu ngủ.

Chiếc giường nằm trong bóng tối được che khuất ánh trăng bởi một cây cột tròn, nhưng từ bậc thềm kéo đến tận giường là dải ánh trăng trải dài. Ngay khi vừa mới mất đi mối liên hệ với những gì tồn tại thực xung quanh mình, quan tổng trấn đã lập tức bước lên con dường phát sáng đó và đi thẳng lên mặt trăng. Thậm chí trong giấc mơ ngài còn cất tiếng cười hạnh phúc; tất cả mới tuyệt vời, mới độc đáo làm sao trên con đường xanh trong suốt này. Ngài đi cùng với con chó Banga, và bên cạnh ngài là nhà triết học lang thang nọ. Họ tranh luận về một điều gì đó rất phức tạp và rất quan trọng, thêm vào đó không ai có thể thắng được ai. Họ không thống nhất với nhau được bất cứ một điều gì, và vì vậy, cuộc tranh luận của họ đặc biệt thú vị và kéo dài vô tận. Lẽ dĩ nhiên cuộc hành hình hôm nay chỉ là một sự nhầm tưởng nào đó - bởi vì nhà triết học ấy, người đã nghĩ ra một chuyện phi lý đến không tưởng được - dường như tất cả mọi người đều nhân từ, - vẫn ở đây thôi, vẫn đang đi bên cạnh ngài, nghĩa là vẫn đang còn sống. Và tất nhiên, chỉ riêng việc nghĩ đến chuyện có thể hành hình một con người như vậy đã là khủng khiếp rồi. Không có cuộc hành hình nào cả! Không có! Ðó chính là điều tuyệt vời của chuyến du ngoạn lên trời theo cầu thang trăng này.
Thời gian rỗi còn có đủ, còn tha hồ, cơn giông phải tận chiều mới đến, và sự hèn nhát, không còn phải nghi ngờ gì nữa, là một trong những tội lỗi khủng khiếp nhất của con người. Iesua Ha-Notxri đã nói như vậy. Không, hỡi nhà triết học, ta không đồng ý: đó chính là tội lỗi khủng khiếp nhất.

Ðấy, chẳng hạn lần đó ở thung lũng Trinh Nữ, khi bọn German điên khùng suýt nữa thì nuốt sống chàng khổng lồ Crưsoboi, ngài tổng trấn bây giờ của Giudea, lúc đó là một tribunút của legio, đâu có tỏ ra hèn nhát. Nhưng hãy lượng xá cho ta, hỡi nhà triết học! Chẳng lẽ nhà ngươi, với một trí thông minh như vậy, lại có thể nghĩ rằng vì con người đã phạm tội chống Hoàng Ðế, quan tổng trấn xứ Giudea lại sẽ chịu làm hỏng bước đường công danh của mình hay sao?

“Ðúng, đúng”, - Pilat rên rỉ và khóc nức nở trong giấc mơ.

Tất nhiên, bây giờ ngài sẽ chịu làm hỏng. Sáng nay thì hẳn là không chịu, nhưng bây giờ, lúc đêm đã xuống, sau khi cân nhắc mọi chuyện, ngài đồng ý chịu làm hỏng con đường công danh của mình. Ngài sẵn sàng làm tất cả để cứu viên thầy thuốc và con người mơ mộng cuồng dại hoàn toàn không có tội này khỏi án tử hình!

“Bây giờ chúng ta sẽ mãi mãi cùng nhau, - nhà triết học lang thang rách rưới, không hiểu bằng cách nào đứng chắn ngang con đường đời của kỵ sĩ Ngọn Giáo Vàng, nói với ngài trong giấc mơ. - Nếu đã có một người này, thì nhất định ở đấy phải có cả người kia! Hễ người ta nhắc đến tôi, thì cũng ngay lập tức sẽ nhắc đến ngài! Tôi - một đứa con hoang, không biết bố mẹ là ai; còn ngài - con trai của nhà vua kiêm nhà chiêm tinh học và nàng Pila xinh đẹp con gái người chủ cối xay gió.”

“Và nhà ngươi đừng quên nhé, hãy nhớ nhắc đến ta, con trai của nhà chiêm tinh học”, - Pilat khẩn khoản trong mơ, và sau khi nhận được cái gật đầu của người hành khất từ En-Sarid đến đang đi bên cạnh mình, quan tổng trấn tàn bạo xứ Giudea vừa khóc vừa cười sung sướng trong mơ.

Tất cả những cái đó thật tuyệt vời, nhưng sự tỉnh dậy của ighemon vì vậy lại càng khủng khiếp. Con chó Banga bỗng hướng mõm lên mặt trăng gầm gừ; con đường xanh, trơn tuột như được rải dầu, liền biến mất trước mặt quan tổng trấn. Pilat mở mắt; điều đầu tiên ngài nhớ đến là cuộc hành hình có thật. Cái đầu tiên ngài làm, là bằng động tác quen thuộc bám chặt tay vào vòng cổ của Banga, rồi sau đó đưa cặp mắt như của người ốm tìm mặt trăng. Ngài thấy bây giờ nó đã đi chệch sang một bên và chuyển thành màu trắng bạc. Ánh trăng chập chờn lẩn vào một luồng ánh sáng khác khó chịu và đầy lo lắng phát ra ngay trước mặt ngài ở trên ban công. Một ngọn đuốc đang cháy bập bùng và tỏa khói trong tay kenturion Crưsoboi. Anh ta vừa sợ hãi, vừa giận dữ liếc nhìn con vật nguy hiểm đang trong tư thế chuẩn bị nhảy phốc ra.

“Banga, nằm yên, - quan tổng trấn nói bằng giọng của người ốm và khẽ ho. Ðưa tay che mắt khỏi ánh đuốc, ngài nói tiếp: - Và trong bóng trăng đêm ta chẳng được yên. Ôi các vị thần linh! Cái chức trách của nhà ngươi cũng tồi tệ lắm, Mark ạ. Nhà ngươi làm bọn lính mang thương tật hết rồi...”
Mark nhìn quan tổng trấn với một vẻ cực kỳ kinh ngạc, khiến ngài sực tỉnh. Ðể xóa đi cái ấn tượng gây nên bởi những lời không cần thiết vừa buột ra khi còn chưa tỉnh hẳn, Pilat nói thêm:

“Ðừng để bụng nhé, kentunon, tình thế của ta, ta nhắc lại, còn tồi tệ hơn nữa kia. Nhà ngươi cần gì?”

“Chỉ huy đội mật vụ xin đến gặp ngài”, - Mark thản nhiên báo cáo.

“Gọi vào, gọi vào đi”, - khẽ ho hắng giọng, quan tổng trấn ra lệnh và đưa đôi bàn chân trần sờ soạng tìm xăng đan. Ánh lửa nhảy nhót trên các cột đá, tiếng giày của kenturion vang lên trên nền đá khảm. Mark bước xuống vườn.

“Và dưới trăng ta chẳng được yên”, - nghiến răng, quan tổng trấn tự nói với mình.

Thế vào chỗ kenturion, người đội mũ chụp bước lên ban công.

“Nằm yên, Banga”, - quan tổng trấn nói khẽ và đè tay lên gáy con vật.

Trước khi bắt đầu nói, Aphrani, theo thói quen của mình, đưa mắt nhìn quanh và bước vào trong bóng tối; khi đã tin chắc rằng ngoài Banga ra, trên ban công không còn ai khác, anh ta khẽ cất tiếng:

“Xin ngài hãy đưa tôi ra tòa, thưa quan tổng trấn. Ngài đã nói đúng. Tôi đã không bảo vệ được tên Giuda quê ở Kiriaph, người ta đã đâm chết hắn. Tôi xin ra tòa và chịu huyền chức.”
Aphrani cảm thấy bốn con mắt nhìn mình - mắt chó và mắt sói.

Aphrani rút từ dưới tấm áo choàng nhà binh ra một túi đựng tiền thấm máu đã khô cứng lại với hai con dấu niêm phong.

“Những tên giết người đã ném cái túi này vào nhà ngài đại tư tế. Máu trên cái túi là máu của tên Giuda quê ở Kiriaph.”

“Có bao nhiêu trong đó, biết được cũng hay?” - Pilat cúi xuống chiếc túi hỏi.

“Ba chục tet'radrakhma.”

Quan tổng trấn cười khẩy, nói:

«Ít quá!»

Aphrani im lặng.

«Tên bị giết ở đâu?»

«Ðiều đó thì tôi chưa biết ạ, - người đàn ông không bao giờ rời chiếc mũ chụp đáp với vẻ tự tin bình thản. - Ngay sáng nay chúng tôi sẽ bắt đầu tìm kiếm.»

Quan tổng trấn rùng mình, buông chiếc quai xăng đan mà ngài cố cài mãi vẫn không được ra khỏi tay.

«Nhưng ngươi biết chắc chắn rằng hắn đã bị giết chứ?»

Ðáp lại, quan tổng trấn nhận được một câu trả lời khô khan:

«Thưa quan tổng trấn, tôi đã làm việc mười lăm năm ở Giudea. Tôi bắt đầu phục vụ dưới thời Valeri Grát [2] . Tôi không nhất thiết phải trông thấy xác chết để mới có thể nói rằng người đó bị giết hay không, và bây giờ, tôi trình bẩm với ngài rằng, cái người có tên là Giuda quê ở Kiriaph đã bị đâm chết mấy giờ trước đây.»

«Ta xin lỗi, Aphrani, - Pilat đáp. - Ta còn chưa tỉnh ngủ lắm, vì vậy mới lỡ lời nói như thế. Ta ngủ không yên, - quan tổng trấn cười khẩy, - và trong mơ cứ trông thấy một dải ánh trăng. Thật buồn cười, ngươi hãy tưởng tượng xem. Dường như ta đi dạo trên con đường bằng ánh trăng đó. Còn bây giờ, ta muốn biết ý kiến của ngươi về việc này. Người định tìm kiếm hắn ở đâu? Ngồi xuống đây, quan chỉ huy mật vụ.»

Aphrani khẽ nghiêng mình kéo chiếc ghế bành lại gần giường, khua kiếm loảng xoảng, ngồi xuống.

«Tôi định tìm hắn ở gần cỗ máy ép dầu ôliu trong vườn Ghevsimania.»

«Thế, thế. Nhưng tại sao lại đúng chỗ ấy?»

«Thưa ighemon, theo tôi, tên Giuda bị giết không ở ngay trong thành phố Iersalaim và cũng không xa thành phố lắm. Hắn bị giết ở ngoại ô Iersalaim.»

«Ta cho ngươi là một trong những người xuất chúng trong nghề nghiệp của mình. Ta không biết ở La Mã như thế nào, chứ ở các thuộc địa thì không một ai sánh nổi ngươi. Hãy giải thích ta nghe tại sao lại như vậy?»

«Tôi hoàn toàn không thể nghĩ rằng, - Aphrani nói khẽ, - tên Giuda lại có thể chịu rơi vào tay của những kẻ đáng ngờ nào đó ở trong thành phố. Không thể bí mật đâm người ở ngay giữa phố được. Thế có nghĩa là phải tìm cách dụ hắn xuống một hầm nhà nào đó. Nhưng người của tôi đã tìm hắn ở Hạ Thành và chắc chắn phải tìm thấy, nếu có hắn ở đó. Nhưng không có hắn ở trong thành phố, điều đó thì tôi xin cam đoan với ngài. Còn nếu như hắn bị giết ở xa thành phố, thì cái túi tiền này không thể được ném vào đây nhanh đến như vậy. Hắn bị giết ở gần thành phố. Người ta đã dụ được hắn ra ngoại ô.»

«Ta không hiểu bằng cách nào có thể làm được điều đó?»

«Vâng, thưa quan tổng trấn, đó là câu hỏi khó nhất trong toàn bộ vụ này, và thậm chí tôi cũng không biết mình có khám phá ra nổi không.»

«Quả là bí hiểm thật! Trong đêm lễ hội, một người có đức tin lại bỗng nhiên bỏ cả bữa tiệc đi ra ngoại ô không hiểu để làm gì, rồi mất mạng ở đó. Ai và bằng cái gì có thể quyến rũ được hắn? Hay là một người đàn bà đã làm điều đó?» - quan tổng trấn bất chợt hào hứng hỏi.
Aphrani đáp thản nhiên và chắc chắn:

«Tuyệt đối không thể được, thưa quan tổng trấn. Cái khả năng đó hoàn toàn bị loại trừ. Ta thử suy luận một cách tỉnh táo xem. Ai là người quan tâm đến cái chết của tên Giuda? Những kẻ hoang tưởng lang thang nào đó, một cái hội kín nào đó, mà điều chắc chắn nhất là ở đấy không có phụ nữ. Ðể cưới vợ, thưa quan tổng trấn, cần phải có tiền; để sản sinh ra đời một con người, cũng cần phải có tiền; còn để đâm chết mạng người nhờ sức một người đàn bà, thì phải cần rất nhiều tiền, cái mà không một kẻ lang thang nào có thể có đủ cả. Trong việc này không có đàn bà dính vào, thưa quan tổng trấn. Thậm chí tôi còn dám nói rằng một sự giải thích việc giết người như vậy có thể làm lạc mất hướng, cản trở việc điều tra và làm tôi rối trí.»

«Ta thấy nhà ngươi nói hoàn toàn đúng, Aphrani ạ, - Pilat đáp. - Ðấy là ta chỉ nói lên điều đoán chừng của ta mà thôi.»

«Nhưng, thưa quan tổng trấn, điều ngài đoán là sai lầm ạ.»

«Nếu thế thì nguyên nhân là cái gì?» - quan tổng trấn thốt lên và với vẻ tò mò háo hức nhìn vào mặt Aphrani.

«Tôi cho rằng tất cả lại vẫn là tiền.»

«Một ý nghĩ tuyệt vời! Nhưng ai có thể hứa trao cho hắn ta tiền vào ban đêm ở ngoại ô thành phố?»

«Ồ không, thưa quan tổng trấn, không phải vậy. Tôi chỉ có một giả thuyết duy nhất, và nếu như nó không đúng, thì có lẽ tôi sẽ không tìm ra cách giải thích khác, - Aphrani cúi xuống gần quan tổng trấn hơn và nói tiếp bằng giọng thì thầm: - Tên Giuda muốn giấu tiền của mình vào một chỗ kín đáo mà chỉ mình hắn biết.»

«Một cách giải thích thật tinh vi. Và có lẽ sự việc đúng như thế thật. Bây giờ thì ta hiểu ý ngươi: cái đã dụ hắn ra ngoại ô không phải là người, mà là ý nghĩ của chính hắn. Ðúng, đúng, đúng như thế.»

«Vâng, Giuda là một tên đa nghi. Hắn muốn giấu tiền để không cho ai biết.»

«Ðúng, như ngươi nói, ở Ghevsimania. Mà tại sao ngươi lại định tìm hắn ở chỗ ấy? Ðiều đó, thú thật, ta không hiểu.»

«Ồ, thưa quan tổng trấn, điều đó thật đơn giản. Không ai lại đem giấu tiền ở ngoài đường, ở những chỗ trống, dễ thấy. Tên Giuda không đến đường đi Hevron, cũng không đến đường đi Viphania. Hắn cần phải tìm một chỗ vắng vẻ, kín đáo, nhiều cây cối. Ðiều đó thật đơn giản. Và những chỗ như vậy ngoài Ghevsimania ra, ở ngoại ô Iersalaim không ở đâu có nữa. Hắn không thể đi xa được.»

«Ngươi đã thuyết phục được ta hoàn toàn. Vậy thì bây giờ phải làm gì?»

«Tôi sẽ bắt đầu ngay việc truy tìm những kẻ đã rình đợi tên Giuda ở ngoại ô thành phố, và đồng thời, như tôi đã trình với ngài, sẽ xin ra tòa.»

«Vì sao?»

«Người của tôi tối qua đã để mất hút hắn ở bãi chợ khi hắn vừa ra khỏi lâu đài Kaipha. Ðiều đó đã xảy ra như thế nào, tôi cũng chẳng hiểu nổi. Trong đời tôi chưa bao giờ gặp trường hợp như vậy. Hắn đã bị theo dõi ngay sau cuộc nói chuyện của ngài với tôi. Nhưng đến khu vực chợ, hắn lủi đi đâu đó, làm một vòng kỳ quái, rồi biến mất tăm.»

«Thế đấy. Ta tuyên bố với nhà ngươi, rằng ta thấy không cần thiết phải đưa ngươi ra tòa. Ngươi đã làm tất cả những gì có thể, và không một ai trên thế giới này, - nói đến đây quan tổng trấn mỉm cười, - có thể làm được nhiều hơn nhà ngươi. Hãy trách cứ bọn lính đã để sổng mất tên Giuda. Nhưng ở đây ta dặn trước: ta không muốn là những lời trách cứ đó quá nghiêm khắc. Bởi vì nói cho cùng, chúng ta đã làm tất cả để bảo vệ cho cái thằng đê tiện đó! À, ta quên hỏi, - quan tổng trấn lấy tay xoa trán, - chúng làm thế nào để ném túi tiền cho Kaipha?»

«Ngài thấy đấy, thưa quan tổng trấn... Ðiều đó không có gì phức tạp lắm. Bọn báo thù đi
ngang phía sau lâu đài của Kaipha, nơi có một ngõ nhỏ nổi cao lên ngay sát sân sau. Chúng ném túi tiền qua hàng rào.»

«Với mẩu giấy?»

«Vâng, đúng như ngài đã đoán trước, thưa quan tổng trấn. Ngài xem đây», - nói xong Aphrani giật dấu niêm phong trên chiếc túi, chỉ cho Pilat xem phía trong của nó.

«Ô, Aphrani, ngươi làm gì vậy, những dấu niêm phong này chắc là của Ðền Thờ?»

«Quan tổng trấn chẳng cần bận tâm tới chuyện đó», - Aphrani đáp và đóng chiếc túi lại.

«Chẳng lẽ nhà ngươi có tất cả mọi loại con dấu?» - Pilat cười thành tiếng, hỏi.

«Không thể nào khác được, thưa quan tổng trấn», - không cười, Aphrani đáp một cách hết sức nghiêm trang.

«Ta hình dung ra cái gì đã xảy ra ở chỗ Kaipha!»

«Vâng, thưa quan tổng trấn, việc đó đã gây nên một sự náo động lớn. Người ta mời tôi đến ngay tức khắc.»

Thậm chí ở trong bóng tối cũng có thể trông rõ cặp mắt của Pilat sáng rực lên.

«Ðiều đó thật thú vị, thật thú vị...»

«Xin mạn phép không đồng ý với ngài, thưa quan tổng trấn, điều đó chẳng có gì thú vị cả. Một chuyện cực kỳ ngán ngẩm và tẻ nhạt. Khi tôi hỏi ở lâu đài của Kaipha có trả tiền cho ai không, họ khăng khăng nói rằng không trả cho ai cả.»

«Ôi thế sao? Thôi được, không trả nghĩa là không trả. Như thế lại càng khó tìm ra bọn giết người.»

«Hoàn toàn đúng như vậy, thưa quan tổng trấn.»

«À mà này, Aphrani, ta bất chợt nghĩ ra một điều: hay là hắn ta tự tử?»

«Ồ không đâu, thưa quan tổng trấn, - kinh ngạc ngả người ra trên ghế bành, Aphrani đáp. - Xin ngài tha lỗi, nhưng điều đó là hoàn toàn không thể!»

«Hừ, trong cái thành phố này tất cả đều có thể! Ta sẵn sàng đánh cuộc rằng sau một khoảng thời gian rất ngắn, cái tin này sẽ loang khắp thành phố.»
Ðến đây, Aphrani lại ném cái nhìn đặc biệt của mình về phía quan tổng trấn, suy nghĩ một
lúc rồi đáp:

«Ðiều đó có thể lắm, thưa quan tổng trấn.»

Hình như quan tổng trấn mãi vẫn không dứt khỏi được đề tài về vụ ám sát người đàn ông quê ở Kiriaph, mặc dù tất cả như thế là đã rõ, và ngài hỏi với một vẻ ít nhiều mơ mộng:

«Ôi, giá ta được trông thấy hắn bị giết như thế nào!»

«Hắn bị đâm bằng những đòn cực kỳ tài nghệ, thưa quan tổng trấn», - Aphrani đáp, nhìn Pilat với vẻ ít nhiều mỉa mai.

«Từ đâu mà ngươi biết điều đó?»

«Xin ngài hãy nhìn kỹ chiếc túi, thưa quan tổng trấn, - Aphrani đáp. - Tôi dám chắc với ngài rằng, máu của tên Giuda phun ra như suối. Trong đời, tôi đã được trông thấy những kẻ bị giết, thưa ngài!»

«Thế nghĩa là, tất nhiên, hắn ta không sống lại nữa chứ?»

«Không, thưa quan tổng trấn, hắn sẽ sống lại, - Aphrani mỉm cười đầy vẻ triết gia, đáp, - khi tiếng kèn của Ðấng Messia mà mọi người ở đây đang đợi sẽ vang lên bên tai hắn. Còn sớm hơn thì không được ạ.»

«Thôi đủ rồi, Aphrani! Vấn đề đó đã rõ. Bây giờ nói sang chuyện chôn cất.»

«Những tên bị hành hình đã được chôn cất, thưa quan tổng trấn.»

«Ồ Aphrani, việc đưa ngươi ra tòa sẽ là một tội lỗi. Ngươi xứng đáng được hưởng phần thưởng cao nhất. Mọi việc đã diễn ra như thế nào?»

Aphlani bắt đầu kể: trong khi anh ta tự mình lo việc tên Giuda, một toán lính dưới sự điều khiển của viên phó chỉ huy đội mật vụ đã đi đến ngọn đồi khi trời bắt đầu tối. Ở trên đỉnh đồi, họ thấy thiếu một xác người. Pilat rùng mình, nói khàn khàn:

«Ôi, sao ta lại không thấy trước điều đó?»

«Không đáng phải lo lắng, thưa quan tổng trấn, - Aphrani nói và kể tiếp: - Bọn lính nhặt xác của Dismas và Hestas đã bị loài ác điểu móc hết mắt. Rồi lập tức chạy đi tìm xác người thứ ba. Và họ đã tìm ra rất nhanh. Một người lạ...»

«Levi Matvei.» - Pilat nói, không hẳn là hỏi, mà đúng hơn là khẳng định.

«Vâng, thưa ngài...»

Levi Matvei trốn trong chiếc hang ở sườn phía Bắc của Núi Trọc, để đợi trời tối. Cái xác trần truồng của Iesua Ha-Notxri cũng ở đó với anh ta. Khi bọn lính cầm đuốc đi vào hang. Levi Matvei rơi vào trạng thái tuyệt vọng và giận dữ. Anh ta hét rằng mình không làm điều gì phạm tội cả: theo pháp luật, bất kỳ ai cũng có quyền chôn cất người bị hành hình nếu như muốn. Levi Matvei nói anh ta không muốn rời cái xác đó. Anh ta bị kích động, la hét những câu rời rạc, khi thì cầu khẩn, khi thì đe dọa và nguyền rủa....»

«Thế phải bắt giữ anh ta?» - Pilat cau có hỏi.

«Không, thưa quan tổng trấn, không ạ, - Aphrani đáp với vẻ cố hết sức làm yên lòng người nghe. - Cuối cùng thì cũng đã làm cho tên mất trí to gan đó dịu đi được sau khi giải thích rằng thi hài sẽ được đem chôn cất.»

Sau một lát im lặng suy nghĩ điều vừa nghe được, Levi tuyên bố rằng anh ta sẽ không đi đâu cả và muốn được tham gia vào việc chôn cất. Anh ta nói rằng sẽ không chịu đi, kể cả khi người ta có định giết chết anh ta; thậm chí với mục đích đó, anh ta còn đưa ra chiếc dao cắt bánh mì mang theo mình.

«Người ta đã đuổi anh ta đi?» - Pilat hỏi bằng giọng nén lại.

«Không, thưa quan tổng trấn, không ạ. Viên chỉ huy phó của tôi đã cho phép anh ta tham gia vào việc chôn cất.»

«Ai trong số các phó chỉ huy của ngươi phụ trách việc này?» - Pilat hỏi.

«Tolmai ạ, - Aphrani đáp và hỏi thêm với vẻ lo lắng: - Có thể anh ta đã phạm sai lầm nào chăng?»

«Ngươi tiếp tục đi, - Pilat trả lời, - không có sai lầm nào cả. Ta nói chung bắt đầu hơi bối rối, Aphrani ạ, có lẽ vì ta đang gặp phải một người không bao giờ phạm sai lầm. Người đó là nhà ngươi.»

Levi Matvei được mang theo lên xe cùng với xác ba kẻ bị hành hình, và sau hai giờ, họ đến một cái khe vắng ở phía Bắc thành phố Iersalaim. Tại đó, toán lính thay nhau làm việc, sau một giờ đã đào được một cái hố sâu và chôn cả ba cái xác xuống đấy.

«Ðể trần?»

«Không ạ, thưa quan tổng trấn. Ðể làm việc đó, toán lính đã mang theo mấy chiếc áo hiton. Trên ngón tay của những cái xác đem chôn đều được đeo nhẫn. Nhẫn của Iesua có một vết khắc, của Dismas có hai vết khắc, còn của Hestas - ba vết khắc. Hố đã được lấp kín, chèn đá. Tolmai biết dấu riêng để nhận ra.»

«Ôi giá như ta có thể thấy trước được! - Pilat nhăn mặt, nói. - Giá như ta được gặp cái tên Levi Matvei này...»

«Hắn ở đây, thưa quan tổng trấn!»

Pilat mở to mắt, nhìn Aphrani một lúc, rồi nói:

«Ta xin cảm ơn nhà ngươi vì tất cả những gì đã làm được trong việc này. Ngày mai, ngươi hãy cho Tolmai đến gặp ta, báo cho anh ta biết trước rằng ta rất hài lòng về anh ta. Còn ngươi, Aphrani ạ, - nói đến đây, quan tổng trấn rút từ trong chiếc túi nhỏ gắn vào dải thắt lưng nằm trên bàn ra một chiếc nhẫn và trao nó cho quan chỉ huy đội mật vụ: - Nhà ngươi hãy nhận lấy làm kỷ niệm.»

Aphrani nghiêng mình, đáp:

«Một vinh hạnh quá lớn, thưa quan tổng trấn.»

«Toán lính đã hoàn thành việc chôn cất, ta đề nghị khen thưởng; những thám tử để mất bóng Giuda - cảnh cáo. Còn bây giờ, đưa Levi Matvei đến gặp ta. Ta cần những chi tiết về vụ Iesua.»

«Xin tuân lệnh, thưa quan tổng trấn», - Aphrani đáp rồi vừa lui bước vừa cúi đầu chào; quan tổng trấn vỗ tay, gọi to:

«Quân bay đâu! Mang đèn vào đây!»

Aphrani đã đi xuống vườn; sau lưng Pilat đã thấp thoáng ánh đèn trong tay bọn gia nhân. Ba ngọn đèn được đặt lên bàn trước mặt quan tổng trấn, và ánh trăng lập tức lùi xuống vườn, dường như Aphrani đã mang nó đi theo mình. Thay vào chỗ Aphrani, bước lên ban công là một người lạ mặt nhỏ bé và gầy gò cùng với viên kentunon khổng lồ đi bên cạnh. Bắt gặp ánh mắt của quan tổng trấn, viên kentunon khổng lồ lập tức lùi xuống vườn và mất dạng.
Quan tổng trấn nhìn chằm chằm người mới đến bằng cặp mắt vừa háo hức vừa ít nhiều thảng thốt. Như người ta vẫn nhìn một kẻ được nghe nói tới rất nhiều, kẻ vẫn hằng được nghĩ đến và cuối cùng đã xuất hiện.

Người mới đến chừng bốn chục tuổi, da đen đúa, ăn mặc rách rưới, lấm đầy bùn đất đã khô, cặp mắt từ dưới hàng mi nhìn gằm gằm như chó sói. Tóm lại, anh ta nom lôi thôi lếch thếch, giống như những kẻ hành khất vốn chen chúc rất nhiều trước cửa Ðền Thờ hoặc trên các bãi chợ Hạ Thành ồn ào và bẩn thỉu.

Sự im lặng kéo dài rất lâu, nó bị chấm dứt bởi những cử chỉ lạ lùng của người bị đưa đến gặp Pilat. Anh ta chợt tái nhợt mặt, lảo đảo, và nếu như không kịp túm lấy mép bàn bằng bàn tay cáu bẩn, chắc đã ngã xuống sàn.

«Nhà ngươi sao thế?» - Pilat hỏi.

«Không sao», - Levi Matvei đáp, làm một cử động giống như cố nuốt một cái gì đó. Chiếc cổ dài ngoẵng cáu bẩn để trần của anh ta phồng lên rồi lại xẹp xuống.

«Nhà ngươi làm sao thế, trả lời đi», - Pilat hỏi lại.

«Tôi quá mệt», - Levi đáp và rầu rĩ nhìn xuống sàn nhà.

«Ngồi xuống», - Pilat chỉ ghế bành, ra lệnh.

Levi nhìn quan tổng trấn vẻ nghi ngại, bước đến bên chiếc ghế bành, sợ hãi liếc đôi tay ghế bằng vàng, rồi ngồi xuống, nhưng không ngồi vào ghế bành, mà xuống sàn đá bên cạnh.

«Tại sao nhà ngươi không ngồi vào ghế?» - Pilat hỏi.

«Người tôi bẩn, tôi làm lấm nó mất», - Levi nói, mắt nhìn xuống đất.

«Bây giờ ta sẽ cho nhà ngươi ăn.»

«Tôi không muốn ăn», - Levi đáp.

«Nhà ngươi nói dối làm gì? - Pilat hỏi khẽ. - Nhà ngươi không ăn đã suốt mấy ngày nay rồi, mà có thể còn lâu hơn. Thôi được, tùy nhà ngươi. Ta sai gọi nhà ngươi đến để nhà ngươi cho ta xem con dao của nhà ngươi.»

«Khi dẫn tôi đến đây, bọn lính đã tước mất rồi. - Levi đáp, rồi cau có nói thêm: - Xin ngài trao nó lại cho tôi, tôi phải trả cho chủ của nó. Tôi đã đánh cắp nó.»

«Ðể làm gì?»

«Ðể cắt dây thừng», - Levi Matvei đáp.

«Mark? - Quan tổng trấn gọi to, và viên kenturion bước lên ban công. - Ðưa cho ta con dao của người này.»

Kenturion rút từ một trong hai chiếc bao thắt lưng ra con dao cắt bánh mì cáu bẩn và trao nó cho quan tổng trấn. Còn tự mình lại lui xuống vườn.

«Nhà ngươi lấy con dao ở đâu?»

«Trong hiệu bánh mì ở cổng Hevron, ngay ở bên tay trái đường đi vào thành phố.»
Pilat nhìn con dao rộng bản, chẳng hiểu để làm gì, đưa tay sờ lên xem lưỡi dao có sắc không, và nói:

«Về chuyện con dao thì nhà ngươi đừng lo, nó sẽ được trả về cho chủ cũ. Còn bây giờ là việc thứ hai: hãy cho ta xem những tờ giấy da cừu mà nhà ngươi mang theo và ghi chép những lời của Iesua.»

Levi liếc nhìn Pilat với vẻ thù ghét và mỉm một nụ cười độc địa đến nỗi khuôn mặt anh ta biến
dạng, xấu xí hẳn đi.

«Ngài muốn tước nó đi ư? Tước đi cái cuối cùng mà tôi có», - anh ta hỏi.

«Ta không bảo nhà ngươi: nộp đây, - Pilat đáp, - ta chỉ bảo: cho ta xem.»
Levi lục bới trong ngực áo và rút ra một tấm giấy da cừu. Pilat cầm lấy, mở ra, trải lên mặt bàn giữa những ngọn đèn và nheo mắt lại, bắt đầu nghiên cứu những đường nét nguệch ngoạc, viết bằng mực đen. Rất khó có thể đọc được những hàng chữ đó, và Pilat nhăn mặt, cúi xuống bên tấm da cừu đưa ngón tay lần theo từng dòng. Cuối cùng ngài cũng hiểu được là những điều ghi chép trên đó bao gồm một mớ rời rạc những câu nói có tính chất châm ngôn, những ngày tháng nào đó, những ghi chép chi thu và những đoạn thơ ca. Pilat đọc được một vài mẩu: “Không có cái chết... Hôm qua chúng tôi được ăn những quả vả đầu mùa rất ngọt...”

Mặt nhăn nhó lại vì căng thẳng, Pilat nheo mắt, đọc tiếp: “Chúng ta sẽ trông thấy dòng đời, một con sông tinh khiết... Loài người sẽ nhìn lên mặt trời qua lần pha lê trong suốt...”
Ðến đây, Pilat bỗng rùng mình. Trong những dòng cuối cùng của tấm giấy da cừu ngài đọc được những lời sau: “...tội lỗi nặng nề nhất... sự hèn nhát”.

Pilat gấp tấm giấy da cừu lại và bằng một cử chỉ đột ngột trả nó cho Levi.

«Cầm lấy, - ngài nói, và sau một lát im lặng, tiếp: - Nhà ngươi, như ta thấy, là một người có học, và nhà ngươi, một kẻ đơn độc, chẳng nên đi lang thang không nhà cửa trong bộ áo quần hành khất này làm gì. Ở Kasaria ta có một thư viện lớn, ta rất giàu, và ta muốn đưa nhà ngươi về làm việc ở đó. Nhà ngươi sẽ đọc và giữ gìn những cuốn sách bằng giấy chỉ thảo, sẽ được ăn no mặc đủ.»

Levi đứng dậy, đáp:

«Không, tôi không muốn.»

«Tại sao? - sầm mặt lại, quan tổng trấn hỏi, - hay là ta làm nhà ngươi căm ghét, nhà ngươi sợ ta?»

Vẫn nụ cười xấu xí đó làm méo mó khuôn mặt Levi, anh ta nói:

«Không phải thế, mà là vì ngài sẽ sợ tôi. Ngài sẽ không dễ dàng nhìn vào mặt tôi sau khi ngài đã giết chết anh ấy.»

«Im đi, - Pilat quát, - hãy cầm lấy tiền vậy.»

Levi lắc đầu từ chối. Quan tổng trấn nói tiếp:

«Ta biết nhà ngươi coi mình là học trò của Iesua, nhưng ta nói với nhà ngươi là nhà ngươi chưa nắm được một tí gì trong số những điều mà anh ta đã dạy ngươi. Bởi vì nếu như thế thì nhà ngươi nhất định phải nhận của ta một cái gì đó. Nhà ngươi nên nhớ là trước khi chết, Iesua nói rằng anh ta không buộc tội ai cả. - Pilat giơ ngón tay lên trời đầy ý nghĩa, khuôn mặt ngài co giật. - Nếu là Iesua thì anh ta nhất định đã lấy một cái gì đấy. Nhà ngươi tàn nhẫn, còn anh ta không phải là người tàn nhẫn. Nhà ngươi sẽ đi đâu?»

Levi bỗng bước lại gần bàn, hai tay chống lên mặt bàn, và nhìn thẳng vào mặt quan tổng trấn bằng đôi mắt rực lửa, và nói thì thầm:

«Ighemon, ngài hãy biết rằng tôi sẽ giết chết một người ở Iersalaim này. Tôi muốn nói điều
đó với ngài để ngài biết rằng máu sẽ còn chảy.»

«Thì ta cũng biết rằng máu sẽ còn chảy, - Pilat đáp. - Những lời của nhà ngươi không làm ta ngạc nhiên. Nhà ngươi, tất nhiên, muốn giết ta chứ gì?»

«Ngài thì tôi không đủ sức giết, - Levi nhe răng mỉm cười, đáp. - Tôi không phải là người quá ngốc để tính làm việc đó, nhưng tôi sẽ đâm chết tên Giuda quê ở Kiriaph; tôi sẽ dành phần còn lại của đời mình cho việc này.»

Lập tức, một vẻ khoái trá hiện lên trong đôi mắt của quan tổng trấn; đưa ngón tay vẫy Levi Matvei bước lại gần hơn, ngài nói:

«Việc đó nhà ngươi cũng không làm được đâu, nhà ngươi đừng vất vả nữa. Tên Giuda đã bị giết đêm vừa rồi.»

Levi nhảy lùi khỏi bàn, nhìn quanh man dại, và hét to:

«Ai giết?»

«Ðừng nóng nảy thế, - cười để lộ hàm răng, Pilat đáp và lau hai tay vào nhau. - Ta e rằng, ngoài nhà ngươi ra, Iesua còn có những người ngưỡng mộ khác.»

«Ai giết?» - Levi thì thào lặp lại.

Pilat trả lời anh ta:

«Ðó là ta.»

Levi há hốc miệng, nhìn quan tổng trấn với vẻ man dại, còn Pilat nói tiếp:

«Ðiều đã làm, tất nhiên, là còn ít, nhưng dù sao đó cũng là do ta làm. - Rồi ngài thêm: - Thế nào, bây giờ thì nhà ngươi nhận một cái gì chứ?»

Levi suy nghĩ một lát, nét mặt dần dần dịu xuống, và cuối cùng anh ta nói:

«Ngài hãy ra lệnh đem cho tôi một mẩu giấy da cừu chưa viết.»

Một giờ sau, Levi đã không còn ở trong lâu đài nữa. Bây giờ, sự im ắng của buổi rạng đông chỉ bị phá vỡ bởi những bước chân nhẹ nhàng của mấy người lính gác đi lại dưới vườn. Mặt trăng nhanh chóng nhạt dần, ở phía chân trời đối diện với nó hiện lên ngôi Sao Mai trắng bệch. Những ngọn đèn đã tắt từ lâu. Quan tổng trấn nằm trên giường. Ðặt một bàn tay dưới má, ngài ngủ và thở nhẹ nhàng. Con chó Banga nằm bên cạnh.

Quan tổng trấn thứ năm của xứ Giudea Ponti Pilat đã đón bình minh ngày thứ mười lăm tháng Nisan như thế đó.

Nguồn: Nguyên tác tiếng Nga MACTEP И МАРГАРИТА. In lần đầu tiên ở tạp chí Moskva, số 11 năm 1966 và số 1 năm 1967 nhưng bị cắt bỏ nhiều. Năm 1973 được in đầy đủ theo bản thảo lưu giữ ở Thư viện Quốc gia mang tên V. I. Lenin. Bản dịch tiếng Việt của Ðoàn Tử Huyến Mikhail Bulgakov, Nghệ nhân và Margarita, Nhà xuất bản Cầu Vồng và Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới hợp tác xuất bản, Moskva 1989, với lời giới thiệu của Giáo sư Viện sĩ Thông tấn P. Nikolaev, thực hiện theo Mikhail Bulgakov, Các tiểu thuyết Bạch vệ, tiểu thuyết sân khấu, Nghệ nhân và Margarita, Nhà Xuất bản Văn học, Moskva, 1973. Lần in thứ hai trong Mikhail Bulgakov. Tuyển tập văn xuôi, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1998, bản dịch đã được dịch giả xem lại đối chiếu với nguyên bản tiếng Nga in trong M. Bulgakov, Tuyển tập tác phẩm năm tập, tập 5, nhà xuất bản Văn học, Moskva, 1990. Phần chú giải được soạn dựa nhiều vào các chú giải của G. Lesskis in trong tập nói trên. Bản in lần này theo Nghệ Nhân và Margarita trong tập M. Bulgakov, Tuyển tập văn xuôi, Nxb Văn học, 1996, có sửa chữa một số chỗ.

[1]Tet'radrakhma: drakhma là đơn vị tiền cổ Hy Lạp, chứa khoảng 6-7 gram bạc, cũng tức là đồng tiền bằng bạc, đúc từ thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Tet'ra là một bộ phận trong các từ phức, có nghĩa là bốn.
[2]Valeri Grat: viên tổng trấn tiền nhiệm của Ponti Pilat ở Giudea.

Mikhail Bulgakov Nhà văn Nga, sinh ngày 15.5.1891 tại Kiev, mất ngày 10.3.1940 tại Maxcơva

Đoàn Tử Huyến sinh năm 1952 tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nguyên là Giảng viên văn học Nga tại Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Biên tập viên NXB Lao động, Phó Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội nhà văn Việt Nam. Hiện là Chủ tịch Hội đồng khoa học của Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây.

Đã dịch trên 30 tác phẩm văn học từ tiếng Nga, trong đó có tập truyện vừa Những quả trứng định mệnh, kịch A. Puskin, truyện vừa Trái tim chó, tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita của M. Bulgakov, truyện vừa Đêm trắng của F. Doxtoevski, tiểu thuyết Đấng Cứu Thế của Otero Silva, tiểu thuyết Bố già của Mario Puzo (dịch cùng Trịnh Huy Ninh) v.v.

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài