talawas chủ nhật

 
Thơ :: 15.07.2007


Thái Kim LanLạnh hơn xứ mình


Thai Kim Lan
Thái Kim Lan

„… Thái Kim Lan không giản đơn chỉ là người chuyển tải tư tưởng Á đông đến với nước Ðức, Thái Kim Lan cũng không đơn thuần chỉ là người phiên dịch giữa các nền ngôn ngữ và văn hóa, mà thật ra Thái Kim Lan đang thực hiện một động tác quân bằng (Balanceakt), biểu hiện một tổng hợp riêng tư, rất cá biệt nhưng đầy sáng tạo hướng đạo. Tổng hợp này không phải là động tác giản đơn choàng lên những ý niệm Á đông bằng tấm áo Ðức quốc, cũng như không phải là cuộc phiên dịch những bài thơ tiếng Việt sang tiếng Ðức mà chính là cuộc thử nghiệm khởi từ nỗi căng thẳng thường trực mà tác giả đã trần thân giữa giòng sống hiện tại. Chính trong sự căng thẳng này tác giả tìm cách phác hoạ (entwerfen) nên một điều gì đó và điều ấy không đơn giản chỉ là sự khơi dậy cái „bên kia“ (Heraufbeschwören des „Dortigen“) cũng không là sự ngụp lặn vào trong cái „bên này“ (Eintauchen in das „Hiesige“), mà là một căng thẳng giữa hai đầu thế giới, chính từ đó nảy sinh đặc điểm riêng tư và nét tân kỳ của tác phẩm.“

Irmgard Ackermann

 

Thái Kim Lan

Lạnh hơn xứ mình

(tập thơ song ngữ Đức - Việt)

tiếng Việt tiếng Đức

 

Dành cho con gái Mai Lan Minh Hạnh Tường Nhi

 

Lời cám ơn dành cho:

Người bạn gái quá cố E. Weinberg, mà sự lắng nghe chăm chú của chị đã cho tôi niềm vui, tiếp tục viết,
Nữ giáo sư I. Ackermann đã viết lời nói đầu đầy hiểu biết và thông cảm,

Tiến sĩ W. Böhme, người đã khuyến khích cho tôi tự tin và mạnh dạn đưa những bài thơ này xuất hiện với bạn đọc.


Lời dẫn của Irmgard Ackermann [1]

Thái Kim Lan làm thơ bằng tiếng Ðức, điều đó không có nghĩa đơn giản rằng, tác giả đã diễn dịch từ tiếng Việt sang tiếng Ðức, cũng không có nghĩa tác giả đang thuần tuý chuyển mình đi đứng trong những hình thức diễn tả Ðức ngữ. Ở đây quả thực ta nghe được một âm điệu mới mẻ và cá biệt mà mãi đến bây giờ ta chưa từng được nghe.

Ðiều gì làm nên thể cách riêng tư của những bài thơ này? Và làm thế nào giải thích được sự thu hút đến từ những ý thơ ấy?

Trước tiên, ở đó là ngôn ngữ, một thứ ngôn từ để cho ta lắng nghe. Ngôn ngữ ấy không rắc rối nhưng lại thật cô đọng, hoàn toàn khác lạ với lối diễn tả khiên cưỡng hay thử nghiệm âm lời cũng như xa hẳn tính thường nhật khuôn sáo. Có lẽ chính do sự kiện „viết trong một ngôn ngữ xa lạ“ làm cho sự cân nhắc dò dẫm những phương tiện sử dụng tiếng nói được ý thức rõ hơn, đồng thời những khả năng bất ngờ, bất thường tự bộc phát, trong lúc người nói tiếng mẹ đẻ thường thường lại không bắt gặp được một cách tự nhiên như thế. Khi „cô đơn trở nên dược đơn“ (die Ein-samkeit zur Heil-samkeit), khi „cây già trong sân u tối bừng nở hoa tuyết“ (der alte Baum im dunklen Hof schneeblumig aufblüht), khi „tất cả - chỉ một-mình-thôi“ (all-ein-sein) - „cô đơn“ - đang được khao khát hay khi „chú chim giật mình bắt đầu kể chuyện theo nhịp nhỏ giọt“ (der verschreckte Vogel fängt an, tropfenrythmisch zu erzählen), thì chính tính bất thường của những thuật ngữ diễn tả làm cho người đọc dừng lại, đọc thêm một lần nữa, và có lẽ đọc thêm hơn một lần, cho đến khi ý nghĩa đàng sau bừng sáng, ý nghĩa thường dễ bị đọc lướt qua trong cấu trúc chữ nghĩa quen thuộc. Không chỉ những kết cấu từ ngữ khác lạ mà ngay cả lối sắp đặt các chữ trong câu („xin đừng dùng quá nhiều khái niệm tuyệt đối từ kho tàng tiếng Ðức“) hay những tương quan cú pháp (syntaktisch) còn để ngỏ („đi nát chân một nửa vòng trái đất chừ ở nhà“) có thể gây nên những tác động ấy, nếu người đọc chịu đi vào cuộc thử nghiệm đặt mình nằm trong trạng thái lơ lửng và từ khước những đóng khung chặt chẽ minh xác.

Cũng thế bên cạnh nhiều dấu hiệu của thế giới quen thuộc và thường nhật, ngôn ngữ tượng hình trong thơ đã đem đến sự nới rộng các hình ảnh hơn chính hình ảnh. Những hình ảnh này thật sự không phải là hiển nhiên đối với người đọc Tây phương, ví dụ những cây long nhãn, những tàu lá chuối hay con chuồn chuồn đỏ, những hình ảnh nêu bật tính „exotique“ và vẻ tráng lệ, cũng như những đóa hoa sen cho ta thấy thế giới quan của đạo Phật. Nhưng không chỉ những ảnh tượng thay thế „exotique“ ấy biểu thị cho ta biết bối cảnh tối hậu „xa lạ“, mà chính ngay cả những hình ảnh có vẻ quen thuộc và thường ngày đối với chúng ta, như cơn mưa hay những đoá trà mi cũng đều gây ấn tượng như thế. Chỉ khi lắng nghe một cách kỹ càng hơn, ta mới ý thức được rằng những hình ảnh này hoàn toàn không báo hiệu các sự vật quen thuộc nào, mà lại nhận ra rằng trong các hình ảnh ấy, thật sự những ý tưởng phương Đông đã tìm được một lối diễn tả đậm đặc, cô đọng: cơn mưa, được tác giả nêu ra trong nhiều bài thơ, có một thế đứng giá trị khác hẳn với khung trời trong vĩ độ của chúng ta: cơn mưa được cảm nhận như sứ giả của quê hương, làm cho người đi xa có thể chịu đựng được sự xa nhà. Nước mưa đem đến an lành và tươi mát và có thể trở thành một sự truy nhận mà ta có thể hiểu được trong nhiều ý nghĩa như là „về-nhà“ (zuhausesein). Cũng thế, đóa trà mi không chỉ là một đóa hoa nào đó mê hoặc ta bằng vẻ đẹp và hương thơm, mà là ảnh tượng (Bild), trong đó „hương thơm quen thuộc của đóa trà mi nhỏ bé kín đáo“ trở thành kẻ dẫn đường trở về thời trẻ dại, một xác nhận của hạnh phúc „ở-nhà“ („vườn bà nội“).

Và cuối cùng là thế giới ý tưởng trong các bài thơ; cũng như ngôn ngữ và thế giới ảnh tượng, thế giới ý tưởng thoạt tiên khởi đầu bằng những ý niệm quen thuộc đối với người Tây phương: những khái niệm có tính triết học và khoái cảm thích lý luận, một mặt đã tạo nên một mũi tên hướng dẫn cho nhịp cầu thông cảm, nhưng mũi tên kia lại chỉ về một hướng khác, hướng của thế giới quan Phật giáo, dẫn đến cuộc sống theo ý niệm „nghiệp“ trong „trở lại với Thiền“. Thật dễ dàng để cho rằng những động lực thúc đẩy thật sự nơi các lời bày tỏ trong thơ đều đến từ thế giới quan đạo Phật, nhưng cũng tương tự như trong cuộc cộng sinh ngôn từ (in der sprachlichen Symbiose) và trong sự quyện lẫn vào nhau của những thế giới ảnh tượng Ðông - Tây nói trên, sẽ rất ngắn ngủi nông cạn khi nói về ý tưởng của các bài thơ nếu chỉ muốn hiểu những bài thơ này đến từ bối cảnh tối hậu Á Đông của chúng:

Thái Kim Lan không giản đơn chỉ là người chuyển tải tư tưởng Á đông đến với nước Ðức, Thái Kim Lan cũng không đơn thuần chỉ là người phiên dịch giữa các nền ngôn ngữ và văn hóa, mà thật ra Thái Kim Lan đang thực hiện một động tác quân bằng (Balanceakt), biểu hiện một tổng hợp riêng tư, rất cá biệt nhưng đầy sáng tạo hướng đạo. Tổng hợp này không phải là động tác giản đơn choàng lên những ý niệm Á đông bằng tấm áo Ðức quốc, cũng như không phải là cuộc phiên dịch những bài thơ tiếng Việt sang tiếng Ðức mà chính là cuộc thử nghiệm khởi từ nỗi căng thẳng thường trực mà tác giả đã trần thân giữa giòng sống hiện tại. Chính trong sự căng thẳng này tác giả tìm cách phác hoạ (entwerfen) nên một điều gì đó và điều ấy không đơn giản chỉ là sự khơi dậy cái „bên kia“ (Heraufbeschwören des „Dortigen“) cũng không là sự ngụp lặn vào trong cái „bên này“ (Eintauchen in das „Hiesige“), mà là một căng thẳng giữa hai đầu thế giới, chính từ đó nảy sinh đặc điểm riêng tư và nét tân kỳ của tác phẩm.

*

Thay lời nói đầu

Hôm nay mưa thu trở lại sau những ngày nắng chói, như một niềm an ủi bời bời cảm xúc buồn vui. Trái tim phập phồng nhói đau theo từng nhịp mưa hối hả đập vào cửa kính.

Mưa! Làm mưa, ước là mưa đã theo tôi từ thuở gặp mưa, quên mình đi trong dòng vô thức, ru mình trong chuỗi rơi, rơi xuống mãi hoài, mà chẳng có một tiếng „để làm gì?“ xa lạ với từng giọt mưa vọng lên trong triền miên ấy.

Mưa, hè nghiêng cơn sốt man man, tôi thấy mình mơ, mơ đạp cương trên cuộc đời dong duổi từ muôn kiếp đến đây. Trong cơn mưa này cũng như trong mỗi cơn mưa kia giữa cõi đời, tôi ngồi nhìn mình đội mưa, đi vào cõi lênh đênh, vẽ tròn một vòng trái đất, tròn và trong như mỗi giọt mưa đang rơi vào biển rộng, không lời… như mỗi giọt mưa từ trời chạm đất, ngân vọng tiếng vang vũ trụ đời đời…

Mưa từng giọt, thời gian chảy vào không gian, mưa từng giọt… gần xa quấn quýt, mưa từng giọt… dìu nhau già-trẻ, mưa từng giọt… chan chứa buồn-vui.

Cùng với tiếng mưa rào rạt, tôi chập chờn trong cảm giác hạnh phúc gặp lại cố tri, ngỡ như mưa từ hàng triệu năm hối hả đến bên, ngỡ như mưa chạy cùng trái đất rơi về, cũ như hơi đất mùa mưa, mới như thoáng gió mưa xuân. Trong mưa tôi không chỉ gặp riêng thời non dại, mà còn thấy được nguồn cơn mọi nẻo địa cầu. Trong mưa ôm hoài nhớ nhung, trong mưa đắng cay xởi lởi ngọt bùi, trong mưa luyến lưu hồn đợi, muội mê long lanh chợt tỉnh, trong mưa bỗng thấy ngày xưa, bồi hồi chưa xong đã tràn mộng mị…

Chìm lỉm trong tiếng lao xao, tôi ngỡ mình đang ôm trái đất vào lòng, quay theo trái đất, rảo bước trên đất, theo mưa mà bay, theo mưa mà rơi, theo mưa mà vô cùng trời đất… Để rồi, một mai, chẳng có nơi đâu là chốn xa nhà…


  tiếng Việt tiếng Đức

Gặp gỡ số 1

đêm đầu tiên
ở xứ lạ
trước bức tường lạ
trong chăn chiếu lạ
thao thức
bôi
trắng
đêm
dài

sớm mai
cơn mưa
chợt đến
có phải tiếng chân ai
rảo bước
từ
chốn quê xa?


  tiếng Việt tiếng Đức

Nói với người bạn Đức

từ từ, từ từ
anh yêu
xin đừng
lớn tiếng
trong ngôn ngữ yêu thương
xin đừng
dùng quá nhiều
khái niệm tuyệt đối
từ kho tàng tiếng Đức
bởi vì
em vẫn còn là
đứa trẻ
trong tiếng của anh
và rất thích
bắt nọn anh
từng lời.


  tiếng Việt tiếng Đức

Mưa sáng ở xứ người

Con chim nào bơ vơ
hát không nhà
đón buổi sáng nhạt nhòa
ướt giọng
thở than
làm tôi giật mình
tỉnh giấc mơ
đoàn viên
để khổ thân
tôi
lại
chèo queo
nằm đếm
thêm
một
ngày
mưa
nữa

xứ
người.


  tiếng Việt tiếng Đức

Xuân sớm

Mặt trời
đã xuống
bên kia núi
Đêm lưa thưa
Bay lên
tận trời vàng.
Còn lại
chú chim nhỏ trong sân
mải mê hát
ấm-thời-gian
vào
mùa xuân
bất tận


  tiếng Việt tiếng Đức

Mùa xuân

Mùa xuân
đã nảy mầm từ đất
Cỏ non xanh
sờ nhẹ
chân trời xanh
Khu rừng thưa
run mình
trong ánh hồng
trăng non
bừng chuyển nghiệp.


  tiếng Việt tiếng Đức

Buổi sáng bên hồ

Sao hôm
Ngái ngủ
Lơ lửng
Trong hồ
Mờ sương
Chuồn chuồn
Đỏ cánh
Nhẹ lay
Hoa súng
Giật mình
Tỉnh giấc
Mơ đêm.


  tiếng Việt tiếng Đức

Chiều bên hồ

Gương mặt hồ
lành
như mặt Phật
Hoa súng
còn ngậm trên môi ướt mọng
nụ cười Mona Lisa.
Con chim én
trễ đàn
chao vội đầu vào nước trong
múc theo ánh sáng
chòng chành cánh
lướt nhanh
về nhà.


  tiếng Việt tiếng Đức

Hạ mưa

Mưa chiều
xanh mướt
trong vườn Ăng-lê
cỏ nhạt nhoà
rưng rưng giọt nắng cuối
trên đầu ngọn gió
bên bờ suối
cặp tình nhân
ru nhau
êm ái
trong
vòng tay
mải mê


  tiếng Việt tiếng Đức

Mùa hè I

Một nửa đời
vu vơ đồng nội
mặt
ngửng
đón nắng trong
bỏ lỏng
con tim
chìm mất tăm
vào màu xanh tháng Sáu

nghe
tất cả-một-
mình ta


  tiếng Việt tiếng Đức

Mùa hè II

Quả xơ-ri tháng Sáu
nửa xanh
nửa đỏ
ánh sáng lục
lá say mặt trời
ngại ngần
khổ
vui


  tiếng Việt tiếng Đức

Thu mưa

Những nụ hồng cuối mùa
gục đầu
thương nhớ
hè qua
- mưa
rơi
trên
mưa -
bỗng
nghe
mùa trở
lạnh hồn
thu không


  tiếng Việt tiếng Đức

Tiết thu

Ngọn lá đỏ
bay
trở lại
bầu trời xanh
trong hồ
hân hoan -
- an lành
đưa tôi
qua bờ
bên kia


  tiếng Việt tiếng Đức

Lại mưa thu

Này em
có nghe
màu xanh
xao xuyến
trên cành
còn say nắng hạ
mưa thu về
rào rạt
cho trọn tình
hè đi


  tiếng Việt tiếng Đức

Thời gian

Thời gian
lay động
màu vàng
lồng lộng
chảy tràn
lá xanh
hoà thành
khúc ngân
mùa thu


  tiếng Việt tiếng Đức

Ca vịnh* mùa xuân

I.

Của năm
đêm dịu dàng
nàng trăng non
đúng hẹn
tô nét cong đầu tiên
cho đôi mày thanh tao
chào đón
xuân sang.

II.

Của ngày
vừa thức dậy từ đêm đông dài
bỗng
nghe màu đỏ nứt ra
trên cành
làm đẹp
gương mặt
trẻ măng
hồng
xuân sớm

III.

Vào giờ trời
hạnh ngộ
đất hạ sinh
bướm bay về
trên cây
thêu hoa
tấm áo
xuân xanh

IV.

Vào trưa
trong nắng
tưng bừng lân tinh
Chú chim hồi hương
hối hả tìm
dấu vết tổ ấm xưa
trên mái rêu phong
ngoài ngõ
mùa xuân
reo chuông
báo giờ
đến rồi!

* Từ tiếng Đức „Frühschoppen“: người Đức có tục lệ rủ bạn bè đi uống bia hay rượu vào buối sáng trong nhà hàng, gọi là „Frühschoppen“. Tác giả dùng chữ này trong liên tưởng đến các buổi thưởng xuân của các nhà nho xưa tại Việt Nam, vừa uống rượu vừa làm thơ, các bài thơ được sáng tác liên hoàn về một đề tài.


  tiếng Việt tiếng Đức

Tuyết đầu tiên

Trong đêm sâu
máu trào lồng ngực
tim bồi hồi
chẳng hiểu vì sao
hoá ra
cây già -
trong sân u tối -
bừng nở hoa tuyết
lặng lẽ sáng ngời
buổi sớm mai


  tiếng Việt tiếng Đức

Một bức thư không bao giờ gửi

Anh có biết, khi
nấu món
chi ngon,
là mỗi lần
em tiếc
anh không còn thưởng thức,
tiếc không bao giờ nữa
nấu cho anh,
em nhớ
nỗi thích thú, niềm vui trong mắt anh
mỗi khi nhìn thấy món ăn ngon bày sẵn.


  tiếng Việt tiếng Đức

Hoài niệm

Tháng Sáu nghiêng đi
cơn nóng dậy thì
hâm hấp nồng dưới mái
trời đất gần nhau
ý bỗng quay về
thời ấy.
Một buổi trưa
tháng 11
tuyết bay
trên đường Theresien
bầu trời mất đi
trong hư vô mù mịt.
Một người quen còn lạ
lên đường
Còn mình
trở lại nhà,
đục vào chăn,
mơ mộng, vấn hỏi, đợi chờ
bơ vơ và bình an và hạnh phúc
và khổ sở và cô đơn.
Ngoài kia
trời tối mau
như thường
vào buổi xế trưa
tháng Mười Một
Chuông điện thoại reo
từ xa
nghe có tiếng:
„Em, anh yêu em!“


  tiếng Việt tiếng Đức

Bài thơ tình

Những ngày
tình yêu chúng ta
Em đếm
nơi những bức điện tín phát nhanh
„Chào em, em yêu,
một nghìn cái hôn…
Anh của em“
„Em, Anh nhớ em
một nghìn lần hôn.
Anh của em“
„Em, Anh nhất định phải cưới em,
một nghìn lần hôn.
Anh của em“
„Em, lúc nào chúng ta cưới nhau?
một nghìn cái hôn.
Anh của em“…
Thế rồi có lần
tiếng bấm chuông
của người phát thư
im bặt
và tôi bắt đầu
ngồi đếm
những nụ hôn
không khí
chưa đếm kịp
cho đến khi
hình ảnh Anh
nhạt mờ…


  tiếng Việt tiếng Đức

Viết cho những người bà con di tản

Người láng giềng mới ngồi ngủ gật đối diện
hôm qua bà ta vừa nhập trại
rõ ràng bà ấy
còn nhầm lẫn ngày
bên Tây
với đêm bên Đông
bởi vì tối nay
trong đêm khuya khoắc
nghe lục đục mãi sau tường bên kia
tiếng đóng mở va li liên tục
người đàn bà trẻ khóc nức nở
trên từng món mang theo
đầy kỷ niệm
Và cùng với bà
trong giường bên này
tôi đã lại trải qua
cái đêm thức trắng đầu tiên
nơi xứ người.


  tiếng Việt tiếng Đức

Thiên luận về một câu chuyện tình

Trước đây nhiều năm,
thuở ấy,
phòng giảng số 101
lần đầu tiên
thấy nhau
trẻ
xa lạ
trong mây mù khói thuốc
và tiếng rì rầm của những người sinh viên khác
trước mặt
ông giáo sư già với mắt kính dày cộm
vẽ trên tấm bảng xanh
những vòng tròn kỳ lạ
giảng giải môn
tri thức luận…
Chúng ta gặp nhau
hướng tri thức ấy
Và khi tôi, người nữ sinh ngoại quốc duy nhất
trong phòng giảng,
ngoái lui nhìn,
như tình cờ
tôi bắt gặp
nụ cười ấm áp
trên gương mặt hiền có chút khổ đau
từ đó
gặp nhau thường hơn
trong các phòng giảng
trong Aula, và còn ở đâu nữa trong trường
thỉnh thoảng
tình cờ ngồi bên nhau
đọc chung quyển sách
trong giờ nghỉ ngắn
dần dà
biết thêm
anh là ai và
tôi từ đâu đến
còn rất ít
nhưng cũng thật nhiều.
Như những con suối nhỏ gặp nhau, như những mẫu tự làm nên lời nên câu…
trong quyển sách
chúng ta cùng đọc
Đó là
„Hiện hữu và hư vô“
đưa chúng ta vào sâu
câu chuyện
quán cà phê
gần Siegestor ấy
quanh ta thế nào nhỉ?
Chỉ nhớ
khí trời hôm ấy là „bayerisch“*
- Föhn -
nắng quái lạ lùng
sáng thủy tinh
pha nỗi nhớ
nhói thần kinh
nắng nhức đầu hoài cảm
Em hỏi tôi
Sau này muốn thành gì
Và Anh?
Anh cười e ngại
Tương lai
Ai biết
Em sợ
Tương lai
Xa quá, khó tiên tri
Anh không
Tôi cũng không
Cả hai còn trẻ quá
Đang ở trên đường dài học biết…
miệt mài môn triết…
Hôm nay
lại ngồi trong quán cà phê
- một quán cà phê sinh viên nào đó -
Chúng giống hệt nhau…
Nhiều năm đã trôi qua
Em vừa thi xong môn cuối.
Tương lai em chừ rõ ràng
phơi ra ánh sáng
- quái thật, mùi cà phê này!
Chén trà, tiếng ồn ào, những người,
những cử động
những bóng dáng quanh tôi - hầu như cũng thế
ngay cả ánh nắng nơi cửa sổ -
cái thứ nắng trong vắt lạ kỳ kia -
những ngày Föhn* - vĩnh viễn giống nhau -
làm cho ta ngỡ
đang ở quá khứ
dù ngồi hiện tại
Bí mật tương lai
gương mặt ẩn dấu
đã có lần làm tim tôi
rung động
nay lộ hình
Chừ tôi biết „cái ấy“ là…
chúng ta ở đoạn cuối bài tri thức
Tri thức! Đó!
Trong phòng Aula nhỏ
tôi ngồi
ngày phát bằng
cái phòng này, cửa sổ này -
những con mắt linh hồn thời sinh viên -
Em đến trễ
- như ngày trước, em đóng cửa đàng sau
quay nhanh đầu
tìm chỗ
- chắc chắn không tìm tôi như ngày xưa -
chúng ta đã xa nhau lâu rồi
Em tiến đến gần tôi
- lần này vẻ thờ ơ
như đến với một người xa lạ
- lạ không thể tả -
Nhưng tôi thì tôi
hôm nay
tôi muốn
nhìn tận mắt
Tương lai của Em và của cả tôi
đã làm cho chúng ta ham mê một thời
thời trẻ ấy
bây giờ già
tương lai, một hiện tại xanh xao
trong mắt Em
tôi thấy
lơ đãng một tương lai mới
quá lạ cho tôi có thể nhìn vào.
Lúc giã từ
Tôi nói - ngược thói quen -
„servus“*
Bỗng một giây
trong tôi
trải ra
nỗi yên lặng
nghìn đời…

* bayerisch: thuộc tính cách của vùng Bayern, miền Nam nước Đức
* servus: tiếng dùng để chào hỏi hay nói tạm biệt thân thiện của người Áo và người xứ Bayern
* Föhn : tiếng Đức, chỉ cơn gió nóng do thời tiết đặc thù của vùng Bayern


  tiếng Việt tiếng Đức

Tại sao?

anh muốn buộc em
tại sao
chúng ta không thể yêu
như hai người yêu nhau
không biên giới, không sở hữu
như những đứa con của Olymp?
- hay giận hờn mà cứ mãi bền lâu -
nhưng
anh nhất quyết buộc chặt em
và gửi
tình chúng ta
vào địa ngục.


  tiếng Việt tiếng Đức

Mâu thuẫn và đồng nhất

kỳ lạ
tôi bỏ đi
đi xa
khỏi vòng tay anh
để nhớ anh
quay quắt
tôi sục sạo
ở đâu đâu
xa lạ
để tìm được anh
trong mình thật rõ
nhưng khi tìm được
anh trong tôi
thì đã
mất anh
vĩnh viễn.


  tiếng Việt tiếng Đức

Triết lý ba xu cho tình yêu*

Tình yêu của người Đức thì…
Như một cái hồ tuyệt diệu
Anh (hay Em) nhảy ùm vào
Và… đụng sỏi nơi… đít…
Tình yêu của người Việt Nam thì…
Như một con sông bí ẩn
Anh (hay Em) lặn vào
Và… không bao giờ nữa
Anh (hay Em) cứu mình ra khỏi con sông

* Hôm nay triết lý này đã bị lỗi thời!


  tiếng Việt tiếng Đức

Người ta tìm thấy em bị giết

Tôi còn nhớ
Năm nào
buổi chiều
tháng Bảy nóng oi
chúng tôi tìm thấy em
trên tầng cấp
đường München
như một con chim bé xíu
rời tổ mẹ lần đầu
em đáp tới
nước Đức
tràn hi vọng
và niềm tin
và đam mê.
Hôm nay tôi như thấy em
vẫn còn ngồi đó
một búp hoa non
nồng nàn, tươi tắn, sáng và trong
trên vai lấp lánh nắng quê hương
trong mắt sáng hửng bầu trời vời vợi
nơi mà em mơ bay đến
tự do và say sưa
bởi vì em có giờ
có sức
có lòng tin.
Em đến nước Đức
em đi đại học.
nhưng thay vì học
Em làm quen đời sống „thực“
đời sống ở nước ngoài
xa nhà ba má
xa hẳn quê hương
Em nhất quyết muốn hưởng tự do
tự do - và cái tự do gì -
tự do của con đom đóm
trong ánh sáng hộp đêm.
Ôi em, cô gái ngây thơ non nớt
Em thích cười
và cười quá đẹp
tại sao em tìm nụ cười
trong các hộp đêm?
nơi những người ham em
lạm dụng hơn yêu.
Em bị lừa đi lừa lại
Em, sinh vật nhiệt tình và nhân ái
Em tưởng, có thể sống với người lạ
như ở nhà em
và ở nhà
Em thấy mình như trong hoang đảo?
Em ơi, em không nhớ
Câu ca dao Việt Nam
„Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng, hạt sa ruộng đồng?“

Tên Sở Khanh nào đã dẫn em đến cuộc sống này?
cuộc sống nhẹ dạ nơi xứ người?
Tại sao em thích gánh trên đôi vai nhỏ
số phận nàng Kiều?
trong thế kỷ hôm nay?
Đóng vai Kiều
nơi đất khách
nơi không có một ngôi chùa
đề linh hồn rách nát
có lần được chở che
nơi không có con sông Tiền Đường
chảy qua giữa cuộc đời trôi nổi
để trái tim trinh nguyên
khoảnh khắc tìm lại được mình
nơi không có nụ cười Quan Âm thị hiện
cứu vớt Em ra khỏi trầm luân?
Thì Em ơi,
Em chỉ có thể tìm thấy tên sát nhân
của chính mình mà khôn phương giải cứu.
thì Em chỉ còn quị ngã
trần truồng trên giường
„đầy thương tích tìm thấy Em bị giết“

Tin Em mất
Cái chết tàn nhẫn
đã xuyên suốt người tôi
như một tia chớp
Tim dại tê
và hồn tôi mê sảng
Thế là
Em đến đây,
nơi miền đất lạ
để gặp kẻ sát nhân à?
- thật phi lý ý nghĩ này -
- mà lại kinh hoàng xiết bao, cái chết này -
Làm sao tôi có thể
đoán trước được
vào buổi chiều hôm ấy
trên gương mặt sáng rỡ của Em
dấu hiệu này?
Em, người con gái nhỏ bé
tội nghiệp EM! Thương EM!


  tiếng Việt tiếng Đức

Việt tính

Tôi ước ao
sẽ có
một ngày
mời tất những bạn Đức
thời thanh xuân
rồi nấu cho mỗi người một món
họ đã thích một lần
- chả giò dòn với rau húng thơm
- thịt ba chỉ kho với nước màu Karamel
- gà chiên dòn với mật ong
thêm vào nước mắm tuyệt ngon
vài giọt chanh chua
và ớt thật cay
rồi
với giọng trìu mến
tôi mời:
„Hãy ăn đi, bé thương
Hãy làm vui
bằng ăn ngon miệng
thiệt tình“


  tiếng Việt tiếng Đức

Ở Bá Linh

Mưa tháng Tư
bên bờ Spandau
làm ướt mi
kẻ chia tay
ngày mai
mưa theo người đi
qua biển
để người ở lại
cùng với giọt mưa rơi
chết đuối
trong hồ
nhớ nhung


  tiếng Việt tiếng Đức

Ở nhà

Đi nát chân
nửa vòng
trái đất
chừ về nhà
rửa lành
với
nước
mưa
trong


  tiếng Việt tiếng Đức

Mưa sáng ở Huế

Ngoài song
mưa hát
sẽ sàng
trên tàu chuối
đong đưa
trong sân
con chim sâu
thủ thỉ
bên người trở về
chuyện mái nhà
mười năm
xa cách.


  tiếng Việt tiếng Đức

Vườn bà nội

Giây phút
gặp lại nhau
Em đứng đó
trong bóng mây bay trên cao
lặng yên và bất động
Em chưa chịu chỉ cho tôi
những nét dễ thương của thời xưa
những nhãn, vải, xoài, ổi
thường xào xạc vẫy chào tôi
từ vòm ngõ
chúng đã bị đốn rồi bao năm trước
cả chanh leo, đu đủ, thơm và chuối
cũng bị bom tàn phá và chết vì chất độc
chỉ còn những vết sẹo
trên thân thể màu nâu
mà ngày xưa tôi đã thích mặc áo
bằng lá dừa và tàng đu đủ
hay với lá trong vườn tuỳ mùa cây
Hôm nay
Em đứng đó. Xác xơ…
câm nín và trống vắng
như những đám mây bay hững hờ
chỉ còn con nhện giăng tơ
che tấm thân trần trụi bằng vỏ ve sầu
ngay cả chú nhện cũng làm lơ
không tiết lộ
cho tôi lối cũ
đã từ lâu cỏ dại mọc tràn
mất dấu
nếu
không có
mùi hương quen thuộc
của đóa trà mi bé nhỏ
kín đáo
chỉ cho tôi
lối đi về thời thơ dại.


  tiếng Việt tiếng Đức

Tóc sâu của mẹ

Mười ba năm
nhịn tình mẹ
ở xa
về nhà
nhổ tóc sâu cho mẹ
trong sân im
thủ thỉ
tóc thơm
mới tiếc
đã ham đi
để mất
bao năm
trong đời


  tiếng Việt tiếng Đức

Nhớ chị

Tấm gương cũ
thời con gái
còn treo
nơi đó
phòng xưa
mà chừ đây
nét chị cười
hiền ơi
trong ấy
thôi… mãi
không còn…


  tiếng Việt tiếng Đức

Thư từ quê nhà gửi bạn Đức

Trong thư bạn hỏi
Tôi đã làm gì
Từ ngày
Trở lại quê hương?
Thưa ở đây
Trời mưa
Mưa mãi suốt ngày
Một tháng đã trôi qua…
Chừ tôi mới quen
Thức dậy thật sớm
Dành trước mẹ
Lò mò ra sân trong
Tìm cách nhen lửa
Với củi ướt mèm
Trong lò đất cũng ướt nhem
Ở Huế trời mưa đến mọi thứ chảy ra thành nước
Nhen lửa thật chẳng dễ dàng
Nhất là cho một kẻ vụng về
Quen thói Tây phương là tôi
Sặc sụa khói tro
Phồng má với ống thổi lửa
Nhưng rồi thật vui
Khi lửa bén bừng lên
Trong bóng mờ buổi sáng mùa đông
tôi đi lấy nước mưa
đổ vào ấm
bắc lên lò
chờ mẹ dậy
pha trà cho mẹ
tôi ngồi yên
như thế
chờ
nước sôi reo
lò lửa hồng ấm đến thích!
ngồi bó gối
thu hai tay lạnh cóng giữa khuỷu chân
nhìn
rất lâu
thật lâu
mưa rơi hoài
hiên trống trải
buổi sáng nhạt nhòa
ôi chao mưa mãi
mái ngói rêu phong
âm thầm
hứng mưa
cơn mưa Huế
nặng nề
như đến từ nghìn xưa
chưa có lần ngưng lại
còn tôi,
ngồi,
nhìn mưa rơi
lòng vui
được có lại một điều
bao năm đánh mất:
Thời gian


  tiếng Việt tiếng Đức

TOẠ THIỀN KHOÁ I

Về tiếng vỗ của một bàn tay
(Nguyên bản: Đàm thoại)

Trên cầu tuyết
những hoa tuyết
rơi...
tới tấp [2]
thành lời [3]


Dạo đêm với Hàn Mặc Tử

(Đêm đông lạnh buốt, trăng sáng ngời đến vỡ thủy tinh!)

Ngay cả trong
đêm đông
lạnh giá
ả Hằng
vẫn đi tắm trần
nơi thác nước


Suối mùa đông

Để đừng
đóng băng
suối mải miết
bỏ bờ tuyết giá
chảy mau


Công án

Bờ rong rêu
nỗi lòng suối chảy
Tuyết
trinh bạch
nằm nghe


  tiếng Việt tiếng Đức

TOẠ THIỀN KHOÁ II

Giải công án

Mặt trời thủy tinh của muà đông buốt giá này
làm chín
chùm tuyết nở hoa năm ngoái
thành
quả kim cương


Viết về Thiền

Nơi người [4]
Cô đơn
Biến thành
Dược đơn


Cái ấy
Rỗng
Ý
Chẳng*
Thiền

* Rỗng ý: „non sens“ = vô nghĩa, tiếng âm đọc sai của „Non Zen“ = chẳng thiền, đây là một lối chơi chữ để diễn tả tính vô nghĩa, dụng ý vất bỏ mọi khái niệm trong Thiền học.


Quán tưởng I

Sấm! Chớp!
Rách toạc lá sen
Choàng tỉnh
Giọt nước mưa tái sinh
Long lanh


Quán tưởng II

Mềm như hơi thở
bóng người và núi
chạm nhau
trong đáy sâu tĩnh lặng
của hồ nước ban mai
đang chú tâm
ngồi thiền


Trở về với thiền

Chết khát vì ước ao
Hao mòn vì tham ái
Héo hon vì tình đời
Tác hại và dại điên
Ta trở lại
Với Người
Hớp ngụm
Trà xanh


Trở về Đức

Ngày đi
mày ngài
tê lạnh
chìm sâu
mất hút
sau đồi tuyết

Ngày về
hoa trắng
đã cười
bên cửa sổ
đón trời xanh.


Một bài thơ hài cú cho bé Tường Nhi

Ô
Tuyết trắng tinh
Con đút vào
Trong túi
Để dành
Mẹ hỉ?


Ngày mưa ở chùa Trúc Lâm

Ngay cả chú gà
cũng thấy
ướt chân
trong
ngày mưa ấy.


Hạnh phúc tuổi thơ

Trưa chủ nhật
Yên lặng trị vì
những toà nhà đại học
Phân khoa Triết
và những nhân vật quan trọng của nó
đang nghỉ trưa
Từ hành lang
các tư tưởng hão huyền
như bóng ma
rút lui
vào đám sách mốc meo
Những tiếng ba xàm lý thuyết
bỏ đi
hướng
Mensa.
Chỉ còn đứng một mình
cái cây non vừa trồng
kẻ lạ duy nhất
trong cung đình suy tưởng
hắn uống cơn nắng nhục cảm
chuếnh choáng gió vuốt ve
hắn lắc lư cái đầu con nít
chòng ghẹo bóng lá lao xao
đùa vui với những giọt nắng lốm đốm
chơi trò sáng - tối
không biết ranh giới
cũng nỏ biết phân chia
không kiêu ngạo cũng không vâng phục
không buồn mà cũng không khổ
Hắn giản đơn là - thế
như hồn trẻ con
vào một ngày hè nọ
hắn vào đời
chơi…


Hò hẹn

Đêm trăng tròn
Sông Isar*
hẹn hò
Sông Hương
nơi
vòng eo
mộng mơ.

* Isar: tên con sông chảy qua thành phố München


Nguồn: Tuyển tập thơ song ngữ của Thái Kim Lan, Hội Giao lưu Đức Á, Reichenbachstr. 3, 8000 München 5, München, tháng 6.1989. Bản đăng trên talawas có sự đồng ý của tác giả. Phần tiếng Việt có vài thay đổi nhỏ so với bản in. Tái bản lần thứ hai 2007 do tạp chí Văn hoá Phật Giáo tại TP Hồ Chí Minh (Sài Gòn) tuyển chọn.

[1]Prof. Dr. Irmgard Ackermann: nữ giáo sư tiến sĩ thực thụ về khoa học ngôn ngữ (Ðức ngữ) của L. M. Universität, München. Nguyên Phó giám đốc viện „Ðức ngữ như là ngoại ngữ“ (Institut für Deutsch als Fremdsprache) của Ðại học München. Trong những năm 1980/90 ngoài những hoạt động hàn lâm đa dạng, bà là đồng chủ biên tuyển tập „Người ngoại quốc sáng tác bằng Ðức ngữ“ (Als Fremder in Deutschland: Làm người lạ trên nước Ðức).
[2]„Dichten“: nghĩa đen: „làm đậm đặc“, „làm cô đọng lại“, nghiã bóng là „làm thơ“
[3]Khóa Thiền bắt đầu với chút ít xa lạ giữa các sinh viên, nhưng trên cầu tuyết những hoa tuyết đã bay thành „lời“ trao đổi, đầm ấm dù trời lạnh tê.
[4]Tiếng Đức „dir“ chỉ ngôi thứ hai đại danh từ có nghĩa: anh, ngài, chị, em, người

Thái Kim Lan sinh ở Huế. Năm 1965, bà qua Đức với học bổng của Viện trao đổi hàn lâm Đức (DAAD) khóa đào tạo giáo sư Đức ngữ của Viện Goethe, tiếp tục học khoa Triết và bảo vệ luận án tiến sĩ triết học tại Đại học Ludwig-Maximilian, München. Từ 30 năm nay, bà là giảng viên về triết học và Phật giáo tại trường Đại học này. Bà là người sáng lập và là Chủ tịch Hội Giao lưu Đức-Việt, có trụ sở tại München.

Tác phẩm I. Kant, Die restriktive Funktion der Sinnlichkeit in der Kritik der reinen Vernunft (Luận án triết học tại Đại học Ludwig-Maximilian, München); Buddismus und Frieden (trong tuyển tập Die grossen Religionen, Đại học Nürnberg); Tuyển tập văn học Đức-Việt về B. Brecht và Hermann Hesse (tuyển chọn, dịch và giới thiệu); Ngoài ra Thái Kim Lan còn là tác giả của nhiều tiểu luận về triết học, tôn giáo và nhiều bài ký sự, tùy bút…

Giải thưởng 10 bài thơ trong tuyển tập Lạnh hơn xứ mình đã được trao Giải nhất „Người ngoại quốc sáng tác bằng tiếng Đức“ của Viện „Tiếng Đức như là một ngoại ngữ“ (Institut für Deutsch als Fremdsprache), Đại học Ludwig-Maximilian, München, 1980. Hai bài thơ „Begegnung“ và „Zum deutschen Freund“ đã được đăng trong tuyển tập „Als Fremde in Deutschland“ (làm người ngoại quốc ở xứ Đức), chủ biên Irmgard Ackermann, dtv, München 1982.

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài