talawas chủ nhật

 
Thơ :: 21.05.2006
Lê ĐạtNgó lời

(Thơ Haikâu)


Phần 1Phần 2
Le Dat
Nhà thơ Lê Đạt
ảnh: Đinh Bá Anh

"... Tôi xin phép được mở ngoặc để nói thêm về từ chơi chữ vì từ này do bị sử dụng quá nhiều đã xuống cấp nghiêm trọng và thường bị nhiều người coi như một trò kỹ xảo đơn thuần có tính lý trí. Người chơi chữ dễ dàng được coi là một người thông minh. Như tôi đã trình bày ở trên, chơi như vậy là chơi đùa. Nhà nghệ sĩ cũng như đứa trẻ không chơi đùachơi thật khiến trò chơi chữ không còn là một trò chơi đơn thuần dựa trên óc thông minh của một người tỉnh táo mà dựa trên toàn bộ trí năng cũng như cảm năng của một kẻ đam mê bị thánh ốp trong một cơn thượng đồng của chữ..."

"... Tôi đã nỗ lực rất nhiều để trở thành một kẻ rồ chữ. Tôi xin được phép nhắc lại một lần nữa. Người làm thơ hoạt động ở những vùng biên ngôn ngữ rất giống một người điên. Cái khác biệt giữa họ nằm ở chỗ người điên thì vượt biên đi thẳng tới cõi vô thức hoàn toàn của đêm tối mù mịt và ở lại đó, còn người làm thơ thì loạng choạng bước một vài bước sang cõi vô thức thì ngừng lại và biết đằng sau quay, trở về với cõi ngày của ý thức sau khi đã lượm dăm mảng đêm của vô thức để mở rộng địa giới của cõi chữ. Làm thơ không chỉ đòi hỏi sự buông lỏng mà còn một cảnh giới thượng thừa..."

(Trích “Đường chữ”, bài viết của Lê Đạt nhân dịp giới thiệu tập thơ Ngó lời trên talawas chủ nhật)

 

Lê Đạt

Ngó lời

(Thơ Haikâu)

 

Ngó lời tim thổ ngữ chữ chim chim

NGỎ LỜI


1.

Ngó lời: mới thơ Haikâu
Thường trực: thư tình


2.

Hình như cổ nhân đã lập ngôn:

“Trong tình yêu cái ta được là cái ta mất.”

Hay bản thân tình yêu chính là sự thất tình

Ngôn ngữ Việt ưa xài “ghen bóng” thưa dùng “yêu bóng”

Anh tình nguyện yêu bóng em, tự do yêu thất tình em suốt đời, hơn suốt đời

May sóng liễu đèn mây ghen bóng
Mưa bóng lông mày yêu bóng ai


3.

Phụ nữ đều bậc thầy ảo thuật. Họ đánh cắp tim ta lúc nào giấu đâu, cả thám tử lừng danh cỡ Sherlock Holmes đành thúc thủ

Em tay xoè một con chim cánh thắm
Cắp tim anh vù nghìn dặm thiên di
Yêu tha thẩn đi trường kỳ trang vắng
Dõi bóng chim tìm một bóng tim


4.

Tình yêu mãi day dứt tôi âm vị cố hương

Sao xưa người ta thường biết nhau biệt nhau mùa thu

Lòng lửa bùng năm xung mùa gió nổi
Tro tình lên chùa bão thổi mười phương

Thơ tôi vỏ ốc nằm lẻ bãi cát già ú ớ tên một Giáng Hương đi

Vỏ ốc u u gọi thu miền cát ngủ
Trách người tên trùng âm gió tương tư


5.

Em dẫn tôi đường Phan Đình Phùng hai hàng cây sấu rợp lá tuổi học trò còn chập chờn bóng ma những ước mơ rồ dại ngày xưa

Đưa anh lần những vùng quên tuổi dại
Thuở trăng sim soi bãi ú tim khờ

Đến giờ em phải về. “Em còn hai chậu quần áo chưa giặt”. Con đường Hàng Da hun hút bụi mưa mơ

Cuối kỷ XX 
bồng bềnh cò vỡ tổ tha hương
biển độ
Có phải quê tượng thần loang lổ
chữ cũ dối lừa
trăng xưa tình phụ
Sóng bạc địa cầu
XXI bờ đâu

Tất cả hương sấu đã theo em về phía đó. Vẫn dáng đi nhanh cằm hơi vênh trời thân thon thẳng hệt con số I La Mã. Tôi cảm giác em đương đi về phía cuối thế kỷ

Hương sấu chân em phố đầu mưa trắng
Xuân vớt mùa hoa đi vắng chữ già nua

Liệu tôi còn đủ sức đi với em đến XXI?


6.

Người ta có thể làm thơ tình vì yêu một người

Người làm thơ tình hay nhất có lẽ là kẻ yêu tình yêu, yêu bội tình - như bội thu - nên rụt rè, nên lo sợ ấp úng, nên “ngu lâu” (?)

Đừng mắng anh ngu lâu bạc đầu vụng dại
Dẫu được yêu lòng quá tải vẫn thất tình

Người đam mê là diễn viên xiếc dây oan nghiệt buộc phải trường kỳ đi. Dừng lại là té ngã

Sống cuộc tình chung chiêng không thắt lưng an toàn. Luôn bắt đầu những ngây thơ cũ, không ngừng bị dối lừa. Không chừa cả tim

Ngoan cố thất tình xuân vẫn mải
Khờ biết bao giờ hết dại yêu.

Cầu trời tình chung thân khờ khạo và đừng bao giờ thạo yêu


7.

Một nhà thơ sắp già báo trước một người đàn bà chưa hết trẻ:

“Anh bảo đảm không làm phiền em ở cõi đời, không dám hứa không làm phiền em cõi chữ, ở đó hai ta đều bất lực.”

Thơ là kết quả sự làm phiền đó chăng?


8.

Đời người thơ hạnh phúc có lẽ là lần tìm những lời tinh mơ nhất để tỏ tình

Ngỏ lời bằng những ngó lời

Bạn đọc nữ yêu thân đừng bao giờ đặt câu tọc mạch nguy hiểm:

“Ngỏ lời với ai?”

Ai đó có thể là chính bạn


Tháng 10.1995
Lê Đạt




MẮT ĐÁP CẦU


Màu kỷ niệm
mắt Đáp Cầu đuổi bướm


Số tình

Nắng bay chuyền chim đầu dây điện thoại
Số tình a lô mãi gọi đôi xuân


Vắng

Vắng em rồi ai dẫn anh đôi phố
Sấu vàng đường trăng trở úa chân thu


Tàu nhanh

Xuân bắt đầu tàu nhanh
xanh thức ngủ
Tình tăng bo toa đỗ đoạn bạc đầu


Xin lửa

Lúm má xoan toan cậy nhờ hạt lửa
Độ nhật hường qua nửa trường đông


Lãnh đủ

Em ô một lạnh mình anh lãnh đủ
Ngoại dù vùng mưa nhỏ hoá mưa to


Tuổi chín

Ngực dự hương thơm đêm mùi tuổi chín
Mắt lá tre đằng ngâm mộng ba giăng


Đầu thu

Mi liễu mắt đừng sao sắc nữa
E biếc đầu thu lỡ giết người


Tìm trầm

Lòng rừng già mà hoa thì con gái
Tóc dư hương
cho thương ngậm ngải tìm trầm


Cao tần

Cánh sóng cao tần biếc quét
Cầu mày cong một nét ăng ten


Bến nổi

Mắt hải đăng soi đường xanh bến nổi
Ngực triều non phao nõn tuổi bềnh bồng


Lời hương

Điện tắt thu tàn trăng cuối tháng
Lời thầm hoa phát sáng thư hương


Thức

Thức chợt mới hay mơ rằng thực
Hoa đền tên nở nức hương đêm


Xổng ngà

Lòng biển triều xa con sóng
Lồng xổng ngà tim ướm giọng
ngực tình ca


Vải Thanh Hà

Tàu ú còi tu hú kêu vườn đỏ
Tuổi vào ga mùa ủ lửa má vừa


Ú tim

Ngỡ trốn đùa
đâu ngờ em trốn thật
Rừng ngàn tìm lạc giọng
hu… ú tim


Phả Lại

Vườn nắng mắt gió bay mùa hoa cải
Bóng lá răm ngày Phả Lại đắng cay


Lạy trời

Yên lành xuân mắt nguồn xanh vần vụ
Lạy trời em đừng họ với cơn dông


Vô đề

Vòng buộc cổ chim thư thả nắng
Hẹn quê ai xoá trắng tên đề


Ngâu

Vào yêu mồng ba chia xa mồng bảy
Tình hăm mốt ngày xúi quẩy may ngâu


Mộng cũ

Tình đổi tiền quầy tim xưa đóng cửa
Mộng cũ dăm đồng âm phủ gió xua


Ngủ muộn

Sớm nào cũng mưa cho mơ em ngủ muộn
Thư ngũ sắc về bong bóng có đưa nhanh?


Thất nghiệp

Em bố trí lịch tim tuần một buổi
Ca đôi tình thất nghiệp hỏi sáu ngày


Máy nhắn tin

Máy nhắn chim tin tìm mê lộ phố
Lòng khác tình tim đổi số lặng thinh


Vũng Tàu

Mắt nước con triều thu lên xuống
Mà tàu mắc cạn vũng tình trăng


Bờ găng

Tình nhà đây nhà đấy
Găng một bờ cách hai
Hoa không cho bên ấy
Nở chòi thơm bên này

Tối để anh về qua
Gai rào đâm thủng áo
Anh không còn mẹ già
Ai rách vá cho anh

Tuổi sớm đi trồng xanh
Áo rách cho nên gió
Tình trách người cách ngõ
Găng bờ xui lắm gai
Xuân đắng lòng măng trúc măng mai


Trung du

Tháp gô-tích núm đồi trưa thở nắng
Chuông ngân chim
thân trắng
bướm cựa mình
Lửa gạo thắp hoa đèn soi cỏ lạ
Mây Sơn Tinh
nước cả
ngã ba tình


Đôi bờ

Cầu bắc liên thôn
đôi bờ liền một
Việc đôi nhà vẫn đấy
vẫn đây nơi
Nắng giải chiếu lối đường ngôi cỏ mượt
Có ý mời người bên ấy sang chơi


Dấu chân

Nhú nhựa mơ măng
xổ căng
ngực trẻ
Bạch đàn se sẻ nốt
bước chim thon
Dấu in thương
vằng vặc sáng đường trường


Phà Đen

Công trường nắng tháng Năm bụi khát
Chiều Phà Đen
môi bến cặp em hồng

Má nồng thơm vị lá mơ lông


Gội đầu

Em đãi sỏi chân cầu
Tóc xanh dầu bụi lấm
Đừng mượn sông gội đầu
Tội lòng xuân vương vấn

Mình anh
lĩnh án
gầu sòng
tát quạnh
Biển Đông


Trái mù u

Xuân tự bao giờ
Mà hoa tuổi mở
Xuân tự bao giờ
Mà hoa ngực nở
Cho mùa dạ hương
Để má mấy thương
Để hường mấy nhớ
Mấy vườn liêu trai
Đèn phải hơi ai
Mà đèn đỏ mặt
Nhà ngổn ngang đường
Dây điện nhện vương

Lối sữa lộc măng mẩy nhựa

Trăng tròn thêm trái nhớ mù u


Mắt Đáp Cầu 

Đương nắng
đường rùng lạnh
Mi rừng em gió lùa
Hay nỗi tím mùa xưa
Bằng lăng động
bước hoa cà
em vào tuổi
Chớp đầu sông
con dông tím giải nồng
Mây bồng bầy mơ trắng rỉa lông
Màu kỷ niệm
mắt Đáp Cầu
đuổi bướm


Tranh hoạ đồ

… như tranh hoạ đồ
(Ca dao)

Đất lành
Nứt xanh
Mới tranh hoạ đồ
Bụi lồ ô câu lấp ló
Trăng nguyên tiêu
xuân tú ụ cỗ rằm

Đây đấy có mời chăng?




THƯ BẰNG LĂNG


Bằng lăng thư hoa lộ tím tin gì


Bãi Ngà

Trưa nhiệt đới Bãi Ngà em ẩn nắng
Sóng bềnh lênh láng trắng phố nổi nênh


Thoại huyền

Tóc phong lan cổ bạch đàn tích sóng
Mắt thoại huyền sông chén ngấn hò khoan


Nhận họ

Phố nguyện má nguyên đào hoa ngỏ
Tình khai sinh thơ nhận họ Từ


Phòng hộ

Trảng nắng tóc cồn xanh biển hát
Phi lao mày phòng hộ cát bay


Rẻo cao

Hoa váy xoè lưng ngựa
Rừng hồi bổi hổi hội kèn môi


Vận hội

Mưa phân vân tuổi chuyển vần cơ mới
Đường bay môi đào vận hội má ngày


Áo

Áo vẽ nét kỳ hình tranh hang động
Mật đồ đảo tình cổ ngữ Óoc-eo


Cuối mùa

Vé độc đắc nhầm quẩn quay gió tiếc
Thu cầm canh xanh biệt phố sấu già


Vỡ hụi

Tình bạc thắm phá sản màu thương cũ
Mộng vỡ hụi hường
hoa chạy nợ hương


Tái giá

Mạ tái giá đồng xanh
Bỏ hoá thửa bạc đầu


Xuân vội

Lịch chưa xuân lửa Nhật Tân bùng má
Đất tốc hành
mùa hối hả tàu nhanh


Tinh lạc

Tinh lạc mắt triều phà mưa vội
Sông Hồng chân sóng nổi phù sa


Mưa rươi

Trung Tự mưa rươi cầu lòng lạc lạ
Lũ tràn bờ răm lá thả đò ngang


Qua cầu 

Ương bước dấn thương cầu bất trắc
Em mắt Sa-tăng
mặt Phật bà


Sang sợi

Tất gót thủng mộng mấy đời đế mới
Lòng đợi lành ai mạng sợi sang xanh


Chót

Chữ ai xui vườn đào em tìm ngải
Tóc bụi trần tình chưa chót dại xuân


Lọ Lem

Bước hài gấm hội đèn hoa vương miện
Bụt lầm tàu tình cắt điện
phố lọ lem


Ảo đăng

Mắt ảo đăng giải tần xanh bước mộng
Hoạt hình phim màn ảnh rộng kênh xuân


Mưa mau

Hẹn cũ của rơi không người nhặt
Tiền lẻ tình quá đát mưa mau


Chồi xanh

Hồ liễu mới nắng mời chim hót gọi
Tình héo rồi xuân dối nói chồi xanh


Dị ứng

Mặt bừng hồng má đồi ban phát ửng
Môi trường tình hay dị ứng môi xinh




Lũ phi mã tình cường con nước tấy
Đò vớt người sào lỡ đẩy tim trôi


Phải xanh

Đại lộ trắng những điều con gái
Lòng phải xanh quên đèn đỏ sang đường


Chim gõ mõ 

Tim lặng lạnh gốc bồ đề mưa cũ
Chim gõ mõ kiếp xưa
chưa hết rũ lụy tình


Nhụy lời

Liễu líu lo tình chim dịch biếc
Nhụy lời râu bướm tiếp âm hương


Thư xưa

Trang thiên thanh ấp xanh mùa cốm tiếc
Thư ủ tình thu ép biếc hơi hương


Xanh

Đất người yên giấc đồi
Thân xanh tình động bóng


Thương muộn

Hương nhu thương tóc tuổi thu rụng lá
Mưa nửa ngày tình cả gió vun cây


Cỏ nhắc

Bia bụi lấp tuổi đá mòn chữ nhạt
Lỗi thầm ba thước nhắc cỏ thì xanh


Mìn nổ

Lửa chiến lịm rồi
A9 em mìn nổ
Mộng tan tình
lòng mấy độ thương binh


Địa lý

Nước cả thương đầu hỏi thăm con nhớ
Sông Hương hay quê lũ nợ Đáp Cầu


Bằng lăng

Áo gió nổi cây đầy mây lạc phố
Bằng lăng thư hoa lộ tím tin gì


Nợ tình

Lối cũ bước một đi hoá lạ
Nợ tình xanh cỏ trả vô danh


Plastic

Mặt plastic ảnh nguyên màu phông thắm
Nhoẻn tươi tình chiều bạc nắng sầu đông


Mây trắng

Biết nhau đầu mưa
tương tư tà nắng
Lững lờ mây trêu trắng phố lửng lơ


Già

Tình sớm đến chiều cho qua mộng trẻ
Gương chột già
trăng mặt lẻ
mưa ga


Màu của tuổi

Áo Sài Gòn sắc ngọt mắt Hồ Gươm
Ngực chín nắng xoài thơm
Má Hôn-đa hồng mi-ni gió
Bến ngược thời hương
Hoa giáng đỏ
lúm đầu

Phố chợt giác màu của tuổi

Vườn vỡ lòng xuân
môi lạc lối đào


Men trần

Trăng sáng hay nước da em sáng
Thân nêông sông sóng tuôn ngần
Vò nội phủ gốm men trần vân nắng

Có điều buồn
em chẳng trắng cho anh


Nhớ

vô lộ nguyệt mang mang
(Đường thi)

Mây tóc gió ngân chiều kỳ ngộ
Tình đầu thơ cổ mộng ngày xưa
Thu áo trượt tà bay hương nắng nhạt
Mùa động mây chim hát dục về trời
Sao bời bời
đường giải thắm trăng phơi
Lông ngỗng phố ngoài tinh lạc


Thuyền nhân

Cho anh làm thuyền nhân Bích Hải
Lòng đung đưa
sóng ngải Vịnh Lông - mày
Cảng nước xanh tàu xứ lạ còi ăn mộng
Kè mi dừa
cờ yếm lộng
âu bay


Ngõ trắng

Mây thu mắt rừng chớp rộ
Cơn nguồn tóc đổ phố muôn chim
Một đàn con chữ lội xanh sông tìm

Chiều phơi đòng
đôi búp chữ lim dim
Ngõ trắng hoa đồi rạng đỏ


Rừng nguyên xuân

Mộng thổ dân rừng nguyên xuân em cấm
Dương xỉ trường thân sơ thuỷ nương tân
Vùng bảo hộ măng nhung tuần lộc nắng
Chim môi xinh hoa hé trắng mơ trần

Ai đốt lòng rừng
cho gỗ tiêu tâm


Thuốc nước I
(Hoà Bình)

Xanh bỗng xanh bình thường
Mây cởi trắng mình sông
Như trời xoan chưa chồng

Ớt chỉ thiên hồng
điểm nhỡn
ụ phòng không


Thuốc nước II
(Hoà Bình)

Đôi cun cút bom bi lìa cụt cẳng
Tập tễnh xoè tình vùng trắng xuân sang
Vườn cao xạ ngồng xanh cò thả nắng

Muộn màng
sông làng trưa lắng đò ngang


Biên tim

Em đóng cửa biên tim
anh miền đất lạ
Lạ phố lạ hoa lạ lá lạ nhà
Chuông nguyện
bước bõ già
chân gió xoá
Chùa Bộc mưa oà
Láng Hạ quá xa


Năm nhuận

Động ngà thạch nhũ trăng tranh cổ
Lũng nhuần năm nhuận ổ dôi đôi
Mơ nụ tâm bầu sự sữa
Trồng cơm xôi
chùa tuổi mụ chuông đồi

Gốc cây đa
be nghé gọi ồi ồi


Sao chổi Haley

Em gác hai bên kia đường
số chẵn
Anh bên này
nghìn lẻ dặm heo may
Mắt viễn vọng cửa trùng trùng
mây trắng
Chớp cuối mày
đuôi sao chổi lay bay


Thánh thể

Anh hành hương Bethlehem
12 gác Hàng Phèn
Chuông lễ trăng non phố bể
Thuở giáng trần
em ban thánh thể
Táo thiên đường
quên rửa tội tổ tông


Mực hoá học

Mực hoá học
tim lẩn chìm khe chữ
Lệ bạc đầu
thơ muộn tỏ Bích Câu
Lòng lênh đênh lần lạc thuở bòng đèo

Môi cốm mùi hoa tình gửi


Dột

Mong mượn mớ tóc mây tình giọi mái
Mun rợp hương chìm dại giấc hoa về
Mây sang sông lòng lều đông dột mãi

Mưa rừng xa
bong bóng nổi giữa nhà


Ngã tư

Cửa mắt đợi tâm đèn chưa ừ biếc
Trời ùn mây xanh miết ứ lòng đường

Thập tự xuân
ngưỡng đinh
tình khổ nạn
Phố buông buồn
angélique chuông thương


Rét “Nàng Xa”

Hoa gạo xuống đất bà già cất chăn
(Ca dao)

Hoa gạo cất chăn rồi
mà em lại đi
Mặt bóng độc song
lòng lẻ lạnh
Rét “Nàng Xa”
đơn mảnh nắng bà già


Nô-em

Nô-en
Nô-em
tháp nổi tin đòng
Bước giáng động lòng xuân
Lưng én chuyển mùa
Áo cộm đường xanh nỗi biển
Tuổi đổi chiều ngã tư
Phố bướm truyền thơm thư má
Cửa thời trân mâm đầy
Mưa liễu phây phây tình rét ngọt

Chuông rền
năm em một
kỷ nguyên


Hiên em

Mưa buồn về
Góc đứng hiên em hai mái
Nắng vườn non nai nải chuối đồi
Mộng khép tán ngực đôi chim hót ngọt

Dao bồ câu
vừng
cơm trắng muốt
tuổi nàng hương


Vườn má nợ

Đường vắng gió lay đèn đảo phố
Hè sương bay lòng bụi lạnh mưa hơi
Ghế đá lở gốc si đôi hẹn lỡ
Chuông giờ xưa
vườn má nợ
bóng ngồi

Tình tính sổ lá rơi


Lễ xuân

Cây nhà nắng chín mưa vừa tới
Của thảo thơm mơ mới trái mùa
Giống nguyên chủng oản chùa hoa nếp cái

Em lễ xuân
quả xuân lại em


Tài trợ

Xuân cháy rừng trọc trơ lòng đất trống
Bòn tro tình chăm xác mộng lên xanh
Quỹ lục lành
ai tài trợ hạt long lanh



Nguồn: Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội 1997. Bản đăng trên talawas có sự hiệu đính của tác giả

Lê Đạt sinh ngày 9.10.1929 tại Yên Bái. Tham gia kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954). Từng công tác tại Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Hội Văn nghệ Trung ương, tiền thân của Hội Nhà văn Việt Nam. Là một trong những thành viên khởi xướng phong trào Nhân văn-Giai phẩm. Bị khai trừ khỏi Hội nhà văn và "cấm bút" hơn 30 năm. Từ 1994, tác phẩm của Lê Đạt mới lại được phép in ở Việt Nam.

Tác phẩm

Trước Nhân văn (1958): Thế giới này là của chúng ta (tập thơ), Bài thơ trên ghế đá (tập thơ), Cửa biển (tập thơ, in chung cùng Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm)
Sau Nhân Văn:Bóng chữ (tuyển tập thơ, gồm các bài chọn lọc, viết trong khoảng thời gian 1970 - 1994, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 1994), Ngó lời (tập thơ, 1997), Trữ tình Ép-phen (tập thơ, 1998), Hèn đại nhân (truyện ngắn, 2000)
Sẽ in: Mi-mô-za (thơ), Bước ký vào XXI (thơ), Nghĩa nặng (thơ), Mi là người bình thường (tập truyện ngắn), Mất ngủ (tiểu luận)

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài