talawas chủ nhật

 
Thơ :: 20.08.2006
Nguyễn Ðăng Thường Thơ cựu thể
Nguyen Dang Thuong
Nguyễn Đăng Thường và Tranh Fernando Botero (Ảnh: Mark Frankland)

“Bài thơ nào của tôi cũng vừa ý nhất mà cũng đáng vất sọt rác nhất. Như tôi đã nói đâu đó: Với tôi, thơ làm xong là xác chết, thơ đăng báo là xác ướp. Chúng đều là ‘tử thi’. Thanh Tâm Tuyền có tuyên bố: ‘Thơ không làm ai sống ai chết’. Nguyễn Ðăng Thường xin bổ sung: ‘Nhưng thi nhân vẫn có thể được vào trại cải tạo nghỉ mát và... vân vân và vân vân’. Nếu tôi được đi xuống / đi vào lịch sử thi ca như là tác giả bài thơ con ruồi thì cũng vinh hạnh lắm thay.” (Nguyễn Đăng Thường trả lời phỏng vấn của Nguyễn Đức Tùng, 2006)

talawas chủ nhật kì này xin giới thiệu loạt tác phẩm mới của nhà thơ mà tên tuổi đã rất quen thuộc trong văn giới Việt Nam: Nguyễn Đăng Thường.
talawas chủ nhật

Nguyễn Ðăng Thường

Thơ cựu thể

 

Không còn chuyện gì mới dưới ánh mặt trời, trừ cách kể chuyện. Robert Coover
Em sẽ không làm thơ "tân hình thức" đâu. Nếu làm thơ thì được sống, không làm thơ thì bị bắn chết, em sẽ xin làm thơ "tra tấn hình thức". Phạm Thị Hoài (trích email gửi Nguyễn Đăng Thường)

 

Quê hương Mác-Đô

Chiến tranh và Hoà bình

Ðịch

Ta

Tàn cuộc

Đàn chim Việt




Trương Chi thế kỷ 21

© 2006 talawas

Nguyễn Ðăng Thường sinh tại Battambang, Cambodge (Campuchia) vì thân phụ chống Pháp tranh cãi với Phạm Quỳnh ở Hà Nội nên bị thuyên chuyển. Tốt nghiệp Ðại học Sư phạm Sài Gòn khóa thứ nhất (1961) ban Pháp văn. Chọn nghề giáo vì khóa học ngắn (3 năm) và chỉ phải dạy 16 giờ mỗi tuần. Ra trường được bổ về Chu Văn An (hậu thân của Trường Bưởi) và chỉ dạy ở đây cho tới khi ra hải ngoại. Không dạy trường tư. Như vậy có thể coi như đã làm nghề "gõ đầu trẻ" nhiều hơn là "bán cháo phổi".

Thích viết nhưng viết khó và lười và nên không có ươc vọng trở thành nhà văn nhà thơ. Nhưng sau khi mãn lính chín tuần (1969) đã được anh Hoàng Ngọc Biên, bạn học ở trung học và anh Diễm Châu, bạn của anh Hoàng Ngọc Biên "rủ rê" nên viết thử chơi. Có một bài thơ hay một bài “Nhật ký tập thể” đăng trên số thứ ba của tờ Trình Bày ra ngày 1 tháng Chín 1970. Tiếp tục đóng góp cho Trình Bày cho tới khi rời Việt Nam sang Campuchia (1973) rồi sang Pháp (1974). Ra hải ngoại có văn thơ đăng trên Nhịp Cầu, Vietnam Culture, Thế Kỷ 21, Văn, Ngày Mới... và gần đây trên các trang báo mạng. Lao động trí thức khá nhiều nhưng may thay tới nay vẫn chưa thành nhà văn nhà thơ.

Tác phẩm: Nguyễn Ðăng Thường, Thơ (Thơ & Thơ dịch, Trình Bày 1971). Dịch phẩm: Pablo Neruda, Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng (Trình Bày, 1989); Blaise Cendrars, Văn xuôi của chuyến xe lửa xuyên Tây-bá-lợi-á và của cô bé Jehanne de France (sau đổi thành Văn xuôi đường tàu xuyên Tây-bá-lợi-á và cô bé Jehanne de France, Trình Bày, 1989); Jacques Prévert, Thơ (dịch tập thơ Paroles chung với Diễm Châu, Trình Bày, 1993); Samuel Beckett, Tưởng tượng đã chết hãy tưởng tượng (Trình Bày 1996), Linda Lê, Tiếng nói (nxb Văn, 2003). Và nhiều bản dịch Samuel Beckett, Marguerite Duras, Marcelin Pleynet, Francois Auriégas, Jean Genet... và thơ truyện Nguyễn Ðăng Thường do nhà Giọt Sương Hoa in vi tính theo dạng thủ công nghệ.

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài